mot ngoi sao bang vua roi qua day
Tai tro bang vat chat. Do la mot qua bong dong luc moi. Bong da rat duoc. Thay mat F Club xin cam on Phuong Danh sach ghi ban Ngoc tiep tuc mac benh ngoi sao khi luon den san sau 15'. Phong do kem coi cua Ngoc the hien khi vua thay nguoi, da vi tri hau ve thong da bi thung luoi va doi ban go hoa 1-1. Chu nhat tuan vua roi F Club thieu
chi bong von la con gai ut cua bac diep nha toi.chi nam nay da duoc 2 tuoi,co nghia la hon toi gan tuoi ruoi.ngay me toi de toi chi bong moi duoc khoang 7,8 thang gi do.vay ma cai toi me toi di de toi,troi thi lanh,bac toi "vut" chi bong o nha vao benh vien ngay voi me toi.roi may hom sau trong benh vien bac toi cu vua di lam vua chay di chay lai …
Ðức Phật nói: - Này Xá Lợi Phất! Ông hãy bi mẫn tha lỗi cho ông tỳ-khưu ngu dại này - nếu không, cái đầu của ông ta sẽ vỡ tan thành bảy mảnh. Tôn giả Xá-Lợi-Phất trả lời: - Bạch Ðức Thế Tôn! Tự nhiên là đệ tử đã tha thứ cho vị tỳ-khưu này rồi. Rồi với hai
Ban vua moi duoc ho goi cho mot accoun quang cao phai chat vat lam moi chen vao blog duoc(doi voi nhung bloger khong ranh tin hoc) thgi accoun da bi dies va roi ban phai thao xuong, goi yeu cau ve google roi tiep tuc ngoi cho doi ma cha pit den chung nao.neu ban chen accoun thanh cong ngay lan dau tien thi phải 10 ngay sau google moi bat dau
Top 18 game indie hay và sáng tạo trên PC bạn nên thử qua. Đóng góp bởi Trịnh Hải Đức Cập nhật 02/08/2022. Sự đặc biệt trong lối chơi của mỗi tựa game Indie luôn làm cho khán giả đại chúng tò mò và từ đó giúp khẳng định vị thế của chúng trên thị trường. Trong bài
menu home di office word berisi tool kecuali.
Sao Băng Khóc EDM Version Lời bài hát "Sao Băng Khóc EDM Version"Một ngôi sao băng vừa rơi qua rớt xuống trên vai ta khuyên nhau,gặp sa0 băng cần điều chi hãy ngôi sao băng vừa rơi qua đã ước anh gặp ta đâu hay,đã bao năm lần anh thấy sao anh ước,và anh ra đi sẽ quay trở sao vì sao em không về anh biết,rằng điều sao băng sẽ không có sao băng rơi cũng như vậy hôm ấy em đã ước 1 điều lúc sao băng vừa anh nhớ cũng đã suốt cuộc đời,chỉ có em mà hôm ấy anh đã biết được rằng trái tim em đổi anh cứ thế mỗi lên bầu trời nhìn ánh sao buồn cho ngoi sao bang vua roi qua rot xuong tren vai ta khuyen nhau,gap sa0 bang can dieu chi hay ngoi sao bang vua roi qua da uoc anh gap ta dau hay,da bao nam lan anh thay sao anh uoc,va anh ra di se quay tro sao vi sao em khong ve anh biet,rang dieu sao bang se khong co sao bang roi cung nhu vay hom ay em da uoc 1 dieu luc sao bang vua anh nho cung da suot cuoc doi,chi co em ma hom ay anh da biet duoc rang trai tim em doi anh cu the moi len bau troi nhin anh sao buon cho có thể bạn muốn tìm các Bài hát liên quanNghe thêm nhạc từ MP3
[05] Với trưởng giả Tu-ạt Tăng chúng mấy hôm nay bàn tán xôn xao về chuyện ông triệu phú ở Xá-Vệ Sàvatthi, đó là trưởng giả Tu-ạt Sudatta. Sau khi nghe pháp từ ức Thế Tôn, ông triệu phú, chứng quả Tu-à-Huờn. Niềm hân hoan sung sướng trong đời chưa từng có đã đến với ông - trưởng giả Tu-ạt ngõ lời cung thỉnh ức Phật và Chư Tăng về Xá-Vệ, quê hương ông để hoằng dương Chánh Giáo. Ông sẽ cúng dường đất và thiết lập tịnh xá để ức Phật và Tăng chúng có chỗ tịnh cư. ức Phật hướng tâm đến, biết đây là nhân duyên rất lớn; Xá-Vệ chính là thủ phủ sau này của Giáo Pháp nên Ngài đã im lặng nhận lời. Tuy nhiên, ức Phật có gợi ý rằng, Ngài và Tăng chúng thường ưa chỗ vắng vẻ, không gần cũng không xa thành phố. Thế là trưởng giả Tu-ạt mừng vui hớn hở trở lại quê nhà tìm đất. Suốt mấy ngày cùng với phụ tá, gia nhân rảo khắp tất cả miền ngoại ô Xá-Vệ ông chỉ tìm thấy được một khoảng đất vừa ý. Ở đây có núi đồi nhấp nhô, nước suối ngọt ngào mát lạnh tỏa nức mùi hương. Từng khoảng rừng suốt ngày im bóng bởi những tàn cổ thụ xanh um; cây lá phong phú sắc màu, kỳ hoa dị thảo đua nở khắp nơi. Xuyên trong rừng là những khoảng trống lớn nhỏ có thể làm nơi tụ họp hoặc hành thiền cả hàng trăm người. Lại có những tảng đá bằng phẳng, liền lạc nối dài cả hai ba chục đòn gánh chạy trong một thung lũng im mát. Suốt ngày gió hát chim ca, mù sương khi đậm khi nhạt, mây trắng vắt ngang đầu núi. Ôi! Quả thật là sơn thủy hữu tình, khí linh thiêng hội tụ chờ đợi đâu từ ngàn năm để chào đón bước chân của đấng vĩ nhân xuất thế! Nhưng khu rừng xinh đẹp ấy lại là của hoàng tộc. Hoàng thân Kỳ-à Jeta là sở hữu chủ, dự định sẽ biến cải khu rừng này làm nơi di dưỡng tuổi già! Khó khăn làm sao! Trưởng giả Tu-ạt khăn áo chỉnh tề đến xá lạy hoàng thân Kỳ-à ngõ ý muốn hoàng thân chuyển nhượng cho miếng đất ấy. - Tôi không dám mua đâu, thưa hoàng thân! Hoàng thân tiền rừng bạc bể còn chúng tôi là hạng dân dã thật chẳng dám cao vọng. Chỉ xin hoàng thân mở lượng hải hà mà chuyển nhượng cho tôi vì tôi muốn làm một công việc quan trọng nhất trong đời tôi. Hoàng thân Kỳ-à ngẩng đầu lên, trả lời - Ta cũng không dám đâu, thưa ngài triệu phú. Ở Xá-Vệ này chẳng nơi nào đẹp và quí bằng khu rừng của ta. Ngài triệu phú phải biết rằng đất ở đấy, nước ở đấy, cây lá ở đấy đều tỏa mùi hương,; mùa đông không lạnh, mùa hè không nóng, ngài biết chứ? - Dạ biết, thưa hoàng thân! Hoàng thân Kỳ-à cao giọng - Vậy sao ngài triệu phú còn đòi mua? Ta biết ngài triệu phú giàu sang nức tiếng mấy đời, nếu ngài có khả năng thì cứ lấy vàng mà đổi đất, ta sẽ bán cho. Trưởng giả Tu-ạt hớn hở - Thưa hoàng thân, đổi như thế nào ạ? - Suối không kể, đá không kể, chỉ tính là đất thôi - ngài lấy vàng lát cho đầy mặt đất, vàng lát đến đâu là đất ta bán cho ngài đến đó! - ồng ý. Tôi sẽ mua với giá như vậy. Tôi biết hoàng thân là người trọng tín nghĩa nổi danh ở đất Xá-Vệ này, một lời nói ra xem nặng bằng non! Thế là suốt mấy ngày ròng rã, trưởng giả Tu-ạt với hàng trăm gia nhân hì hục vận chuyển vàng từ kho này sang kho khác, những mong lấp cho đầy đất, mua trọn cả khu rừng để cúng dường đến ức Thế Tôn và Tăng chúng. Hoàng thân Kỳ-à không ngờ chuyện nói chơi mà thành thật. Ông vội vã cho thắng ngựa đến nơi xem. Ngạc nhiên làm sao, từ khu đất này sang khu đất khác, vàng đã được lát đầy, sít sao không có kẽ hở! Và kìa, trưởng giả Tu-ạt đang đứng trầm ngâm nhìn ngắm những gốc cây cổ thụ. Hoàng thân Kỳ-à mỉm cười - Sao? ắt quá phải không? Ta không cần vàng đâu, ngài triệu phú! Hãy rút lời lại đi, cũng không muộn mà! - Dạ, không ạ! Thưa hoàng thân! Tôi không dám nghĩ là đắt đâu! Tôi đang tính toán là vàng phải lát như thế nào ở nơi những gốc cổ thụ choáng đất kia! Hoàng thân Kỳ-à mở lớn mắt, ông không còn dám tin vào tai của mình nữa. Quả có chuyện kỳ lạ như vậy ư? Ông triệu phú này điên khùng hay sao mà dám coi vàng còn tệ hơn đất cục? ồng ý là đất này quí nhưng cũng không thể quí bằng vàng được! Từ ngạc nhiên đến tò mò, hoàng thân bèn cặn kẽ hỏi lý do. Trưởng giả Tu-ạt cũng tự sự đầu đuôi kể cho hoàng thân nghe về ức Thế Tôn và Tăng chúng. Ông cũng không quên kể chuyện là vua Bình Sa đã qui y ức Thế Tôn, cúng dường Trúc Lâm tịnh xá như thế nào. Riêng ông thì được nghe pháp và sự chuyển hóa lạ lùng, sự bình an lạ lùng xảy ra trong tâm ông ra sao! Hoàng thân Kỳ-à chăm chú lắng nghe, tự nghĩ "- Ông Phật, qua đó chắc là một vị đạo cao đức trọng, một vị Thánh đang xuất hiện ở đời này. Ông triệu phú đã làm một việc có ý nghĩa vĩ đại. Ông ta là hạng dân dã mà dám phát tâm cao thượng - còn ta, ta cũng nên đóng góp vào đấy một chút công đức." Bèn nói - Thôi! Ngài triệu phú đừng tính vàng nơi mấy gốc cây kia nữa, nhiều lắm đấy! Ngài cúng dường đất đến ức Phật và Tăng chúng còn ta thì xin được cúng dường cây. ất là của ngài triệu phú, còn cây là của Kỳ-à này, được chăng? * * Vì tích này nên Kỳ Viên tịnh xá còn được gọi là Kỳ thọ Cấp Cô ộc viên Kỳ thọ cây của Kỳ à; Cấp Cô ộc viên vườn của Cấp Cô ộc Trưởng giả Tu-ạt xiết bao mừng rỡ. Sau khi mua đất xong xuôi, đã được ức Vua đóng dấu có triện son, trưởng giả Tu-ạt tức tốc trở lại Trúc Lâm tịnh xá tâu bạch mọi sự cho ức Phật hay. Cũng như Vua Bình Sa kiến thiết Trúc Lâm tịnh xá, trưởng giả Tu-ạt muốn cúng dường một công trình xây dựng thật quy mô nên xin ức Thế Tôn góp ý chỉ đạo. Sau đó ông còn tâu trình việc khác nữa - Bạch ức Thế Tôn! Xá-Vệ là một thành phố giàu mạnh ở phương Bắc, dân cư đông đúc, mức sống khá cao, tuy thế so với Vương-Xá thành thì nó chỉ là vùng biên địa xa xôi, nhân dân tuy bản chất thuần hậu nhưng còn mọi rợ. Lại nữa, đấy là chỗ mà bàng môn tả đạo đang lộng hành. Khắp thành phố, bọn ngoại đạo nghênh ngang làm tiền, mê hoặc dân đen ngu muội, cuồng tín bằng những phép lạ, bùa chú, ngãi nghệ, thuật số... cùng hàng trăm cách cúng tế khác nhau. Thần linh đủ loại ngồi đầy mọi nơi, mọi chỗ. Quanh năm thiên hạ cúng tế đầu súc vật, hiến tế máu, trái cây, trầm hương nghi ngút. Họ tu ngồi xổm, hai tay ôm đầu và nhảy. Họ tu quét đất, nằm ra đất mà lạy mà bò. Họ tu lõa thể, đi tồng ngồng chỗ này chỗ kia, thấy tóc, râu, lông chứ không thấy mặt mũi. Họ tu hạnh nằm giữa đất, ăn trên đất chứ không ăn trong lá chuối. Họ ngồi trong vũng bùn, cống rãnh. Họ treo ngược người lên cây và ăn mỗi ngày từng hạt, từng trái lượm được. Họ sống vinh thân phì da với năm mụ vợ, mười mụ vợ mà thuyết con đường về với Phạm thể. Họ độc quyền về ma chay, cưới hỏi, các cuộc hội lễ với thần linh, ngày tốt xấu, hướng nhà, hướng cửa... với những giá cắt cổ, bóp hầu thâu họng... Bạch ức Thế Tôn! Có lẽ do duyên lành vạn kiếp, mặc dầu bị bên này vận động, bên kia tuyên truyền, con vẫn trơ trơ không theo bọn chúng, không ngã theo đạo nào! Nhờ vậy con mới gặp được ức Thế Tôn, được nghe Giáo Pháp trong sáng và lành mạnh. Cũng vậy, thành phố Xá-Vệ, quê hương của con cần thiết phải có mặt Giáo Pháp vô thượng của ức Thế Tôn. Rác và bụi trong mắt mọi người cần phải được quét sạch. Cuồng tín và ngu si cần phải được trí tuệ rọi sáng. Những hôi hám, dơ dáy trong mọi sinh hoạt tinh thần cần phải được làm cho sạch sẽ, thanh tịnh... Bạch ức Thế Tôn! Phi ức Thế Tôn! Không ai ngoài ức Thế Tôn cùng các Ngài Trưởng lão ại Trí Tuệ, ại Thần Thông... là có thể khuất phục được chúng ngoại đạo. Ở Xá-Vệ có nhiều khó khăn và phức tạp khi đặt viên đá đầu tiên xây dựng cũng như sự phát triển sau này của Giáo Pháp. ức Phật chăm chú lắng nghe tất cả lời tâu trình rõ ràng và mạch lạc của trưởng giả Tu-ạt; Ngài biết là ông ta nói rất đúng, rất chính xác, bèn quay qua Tôn giả Xá-Lợi-Phất - Này Xá-Lợi-Phất! Ông nghe rõ về tất cả mọi điều mà ông trưởng giả Tu-ạt vừa nói đó chứ? ấy là tất cả sự thật ở Xá-Vệ. Khó khăn lắm đấy! - Thưa vâng, bạch ức Thế Tôn! ức Phật tiếp lời - Như Lai muốn ông hãy đi đến Xá-Vệ, góp ý với ông Tu-ạt trong việc kiến thiết, xây dựng. Còn việc đối phó, giao tiếp với chúng ngoại đạo thì ông cứ tùy nghi linh động giải quyết. Bất cứ sự cảm hóa, cải thiện, đổi mới nào - mặc dầu là có lợi ích - vẫn bị sự chống đối, phá hoại, phỉ báng từ nhiều phía. ấy là cái đương nhiên phải xảy ra. ừng mong là thuyền ra khơi luôn được thuận buồm xuôi gió, trời trong biển lặng! ừng hy vọng hảo huyền là con đường đi của Giáo Pháp chơn chánh trên đời này sẽ được lót bằng những tấm thảm nhung! Con người không dễ dàng gì thay đổi một thói quen, nhất là những thói quen đã biến thành hình thức, tập quán ăn sâu, cắm rễ trong truyền thống từ đời này sang kiếp nọ! Này Xá-Lợi-Phất! Giáo Pháp giác ngộ, giải thoát cần phải được xiển dương, cần phải được tăng trưởng, lớn mạnh, phát triển. Cần phải đi vào lòng người và lòng xã hội. Giáo Pháp của tự do và trí tuệ phải là ánh sáng, là ngọn đèn dẫn đường cho những tâm thức nô lệ, yếu hèn và ngu muội. Hãy giương cao ngọn cờ munja! Hãy giương cao ngọn cờ của bậc thiện trí! Hãy vô vi, vô dục, mở rộng tấm lòng từ bi quảng đại! Hãy bình lặng như đất, kham nhẫn như đất - tùy duyên mà giáo hóa sinh quần! Này Xá-Lợi-Phất! Hãy nghiêng vai mà nhận lãnh trách nhiệm ấy, khó khăn ấy - tất cả, Như Lai giao phó cho ông. Chừng bốn, năm tháng nữa, trước mùa mưa, Như Lai và Tăng chúng trên một ngàn vị sẽ đến đấy để an cư! ức Phật chỉ dạy như vậy, Tôn giả Xá-Lợi-Phất đã nắm rõ toàn bộ vấn đề. Ngài tóm tắt trong óc mình như sau "- Vậy là có tất cả ba vấn đề chính yếu. Việc thứ nhất là sẵn sàng luận tranh với bọn luận sư ngoại đạo nhiều môi mép và miệng lưỡi; phải làm cho chúng tâm phục, khẩu phục Giáo Pháp Vô Thượng của ức Tôn Sư. Thứ hai là phải đối trị với những phép lạ lòe đời của chúng ngoại đạo. Và thứ ba là góp ý xây dựng công trình kiến trúc!" ến đây, một ý nghĩ khác lại khởi sanh trong tâm của Tôn giả "- Nghe nói chúng ngoại đạo ở đây thần thông, phép lạ, pháp thuật cao cường, nhưng tại sao ức Tôn Sư không cho ại Mục-Kiền-Liên đi cùng? Tuy nhiên, một ấng Toàn Tri Diệu Giác khi làm một việc gì là đã suy nghĩ chu đáo, rốt ráo ta không cần phải thắc mắc nữa!" * * * Từ Vương-Xá thành đến Xá-Vệ có rất nhiều lối đi, nhưng theo đường bộ, men dọc sông Hằng, vượt lên phía Bắc là con đường mà khách thương hằng lui tới. ây là con đường đi qua nhiều quốc độ có ít trộm cướp, thú dữ, độc trùng, mãng xà. Ông trưởng giả Tu-ạt chọn lộ trình này mà ức Phật và Tăng chúng cũng thường đi theo lối này. Tôn giả Xá-Lợi-Phất đắp y, mang bát đến đảnh lễ ức Phật lúc sao mai còn vằng vặc trên trời. - Này Xá-Lợi-Phất! Như Lai tin tưởng ở nơi ông. Xá-Vệ sau này sẽ là kinh đô lâu dài cho Giáo Pháp, vậy ông hãy kham nhẫn mà chu toàn mọi công việc thay mặt cho Như Lai! - ức Tôn Sư dạy bảo gì cho đệ tử nữa không? - Không, chỉ vậy là đủ. ức ại Mục-Kiền-Liên, ức ại Ca-Diếp, ức Ànanda, ức ề-Bà-ạt-a cũng đến tiễn chân Tôn giả Xá-Lợi-Phất từ rất sớm. - ường bộ hành xa xôi diệu vợi, Tôn giả hãy bảo trọng. - Sớm mong gặp lại Tôn giả để nghe lời nhắc nhở, chỉ dạy. Chư tôn Trưởng lão ai cũng mến mộ Ngài Xá-Lợi-Phất, nói lời tiễn biệt Ngài ân cần đáp lễ - Chư hiền, chư hiền cũng ráng bảo trọng, hầu hạ ức Tôn Sư! Xá-Lợi-Phất tôi là ai mà dám mất thì giờ của chư hiền đến vậy! ặc biệt hôm đó Tôn giả nắm tay Ngài Ànanda - Hiền đệ rất được ức Tôn Sư tán thán về sự nghe nhiều học rộng. Trong thời gian tôi đi vắng, nhờ hiền đệ chăm chút dạy bảo đám học trò chung của chúng ta, ước chừng đến hôm nay đã có mấy trăm tỳ-khưu, sa-di trẻ rồi. - Thưa vâng, con sẽ tuân mạng! Tôn giả lại nắm tay ề-Bà-ạt-a - Tôi đã nhiều lần gặp hai hàng cư sĩ áo trắng ở Vương-Xá thành để ca ngợi, tán thán giới hạnh tinh nghiêm, trong sáng của ại ức. Tôi thật rất sung sướng và hoan hỷ mà ca tụng tài đức, thanh danh của ại ức lan xa nhiều quốc độ; để hàng hậu học noi gương, để cận sự nam, cận sự nữ phát khởi lòng tin. - Tôi thật chưa xứng đáng để Trưởng lão quan tâm ưu ái như vậy. Tôi nguyện sẽ cố gắng để khỏi phụ lòng Trưởng lão. Sau đó Tôn giả Xá-Lợi-Phất xá lễ, quay lưng theo lối mòn thiên lý, an trú chánh niệm trước mặt và cất bước. Từ vệ đường, một chiếc xe hai ngựa đổ lại và trưởng giả Tu-ạt bước xuống. - Cung thỉnh ại ức Trưởng lão lên chiếc xe của con. Tôn giả Xá-Lợi-Phất vẫn ôm bát đứng yên lặng. Trưởng giả Tu-ạt lại thưa - ường sá xa xôi, mưa nắng thất thường, đầu thì đội trời, chân đạp đất; Trưởng lão chẳng có gì che chắn sức khỏe cho mình cả. Xin Trưởng lão hãy hoan hỷ bước lên xe. Tôn giả Xá-Lợi-Phất nói - Trưởng giả đừng lo cho tôi, sức khỏe của tôi còn tốt. Vả lại ức Tôn Sư có dạy rằng "Này tỳ-khưu! Hãy nhìn con thiên nga kia, nó đã lìa khỏi ao hồ tù đọng để thênh thang giữa trời cao bể rộng! Các thầy cũng vậy! Các thầy đã có chiếc mỏ là bình bát, lá y là đôi cánh; các thầy cũng tự do thênh thang ra đi, lòng như mây trắng không vướng một chút gì trên trần thế, ăn cơm ngàn nhà, đến muôn phương mà giáo hóa sinh quần." Trưởng giả Tu-ạt kính cẩn chấp tay lắng nghe. Tôn giả Xá-Lợi-Phất lại tiếp - Ông là cư sĩ, lại lớn tuổi hơn ta, ông có thể ngồi trên xe ngựa mà đi, điều ấy là hợp pháp, chẳng ai chê cười cả. Còn ta thì khác, ta là thầy tỳ-khưu ôm bát đi xin ăn, ở trong một Giáo Hội tự nguyện sống đời vô sản bần cùng; ta đã có mỏ, có cánh để lên đường, ông khỏi lo cho ta! Lại nữa, ức Thế Tôn sẽ không cho phép ta đi xe, đi ngựa; giới luật không cho phép, thế gian không cho phép - mà chính ta, ta cũng không cho phép. Vậy ông hãy lên đường trước, hẹn gặp nhau ở Xá-Vệ. Trưởng giả Tu-ạt bây giờ mới hiểu điều đó - Thế thì con cũng vậy, mặc dù chỉ là cư sĩ sơ cơ, từ rày con cũng không cho phép mình ngồi trên xe cho ngựa kéo. Nói xong, ông Tu-ạt hối hả mang cả chiếc xe ngựa tặng cho một gia đình nông dân nghèo bên đường, rồi khoác tay nải, hớn hở bước theo chân ức Xá-Lợi-Phất. Thế là thầy trò lên đường, ngày đi đêm nghỉ. Ông trưởng giả Tu-ạt có nhiều cơ hội để hỏi chuyện, cơ man nào là chuyện trong những khi rảnh rỗi. Tôn giả Xá-Lợi-Phất cũng sẵn lòng giải đáp mọi điều cho vị Thánh cư sĩ tò mò, ham học hỏi này. Mặt trời lên chừng ba con sào, dừng chân bên một bóng cây, Tôn giả Xá-Lợi-Phất nói - Bây giờ ta sẽ vào xóm nhà kia để làm bổn phận xin ăn của một thầy tỳ-khưu. Trưởng giả hoặc là đi trước hoặc là đợi chờ ở đây thì tùy vậy. - Bạch Trưởng lão - Ông Tu-ạt ngần ngừ - con có một ước muốn... - Ông cứ nói. - Con muốn đặt bát cho Trưởng lão. Dâng vật thực, nước uống, tăm xỉa răng đến cho Trưởng lão vào mỗi buổi trưa, trước giờ ngọ, tại chỗ dừng chân, được chăng? - Nếu có lời thỉnh cầu của ông cư sĩ thì được, tuy nhiên, không được quá ba bữa. - Thưa, con chưa hiểu. - ó là do lời nguyện của ta, ta muốn đi nhiều nơi để gieo duyên cho nhiều người. - Vậy thì con không thể thỉnh mời luôn? - Này ông Tu-ạt! ã có trường hợp thí chủ thỉnh mời ức Thế Tôn và Tăng chúng để hộ độ trong suốt mùa an cư. Tăng chúng thì có thể, nhưng ức Thế Tôn hằng ngày thường muốn đi hóa độ nhiều nơi. Ngài chỉ nhận một bữa thôi. Trưởng giả Tu-ạt vậy là đã hiểu. Quý Ngài muốn cho nhiều người phát tâm cúng dường để họ được gieo duyên, tạo nghiệp lành cho chính họ. ến trưa, ông làm bổn phận của một đệ tử mà cảm thấy niềm hân hoan, mát mẻ dâng ngập cả tâm hồn. Thấy Tôn giả Xá-Lợi-Phất với bình bát bên chân, định tỉnh, an trú niệm, từ tốn, chậm rãi độ thực; ông tự nghĩ trong tâm "- Ôi! Quý Ngài cao thượng xiết bao! Người ta dâng cúng vật gì quý Ngài dùng thứ ấy, tuyệt đối không đòi hỏi, không gợi ý bao giờ! Xem kìa! Ta chưa thấy ai vo từng miếng cơm cẩn trọng, nhai cẩn trọng, nuốt cẩn trọng như vậy. Tất cả ở nơi Ngài đều toát ra sự cẩn trọng và vắng lặng một cách lạ lùng." Khi ông Tu-ạt cất đặt mọi thứ xong xuôi, Tôn giả Xá-Lợi-Phất nhẹ tay đặt lên vai ông - Phải cẩn trọng chứ ông Tu-ạt! Vật thực kia chính là do ân đức của xã hội, chúng sanh mà có. Khi dùng vật thực, thầy tỳ-khưu phải hiểu rằng nó chỉ để nuôi mạng, để được mạnh khỏe mà tu học, chứ không phải để cho béo tốt, để mà phô phang bắp tay bắp chân như kẻ vũ phu... - Thưa vâng! - Lại còn biết dừng nơi chỗ vừa đủ, đừng no quá nữa, ông Tu-ạt! - Thưa vâng! Một lát ông Tu-ạt lại hỏi - ức Thế Tôn và Tăng chúng có khi nào bị đói không, bạch Trưởng lão? - Chuyện ấy không phải là không xảy ra! Như cách đây hai năm, tại Veranjà có nạn đói, suốt ba tháng nhập hạ ở đó, ức Thế Tôn và năm trăm vị tỳ-khưu đã chia sớt nhau chút ít thức ăn của ngựa do người lái ngựa có lòng tốt dâng cúng. Ông Tu-ạt tự nghĩ "- Sau này, khi thỉnh ức Thế Tôn và Tăng chúng về quê nhà, ta sẽ bỏ ra tất cả gia tài để chăm lo vật thực cho đầy đủ, mấy ngàn vị cũng được. Ta quyết không để cho ức Thế Tôn và Tăng chúng thiếu thốn bất cứ vật gì. Sức khỏe của quý Ngài chính là hạnh phúc cho tất cả chúng sanh." Rồi lại hỏi - ã có khi nào ức Thế Tôn an cư một mình mà không có ai hầu hạ, không có người lo lắng vật thực không, thưa Trưởng lão? - Có đấy! Ông Tu-ạt! Một lần ức Tôn Sư nhập hạ một mình trong rừng, một lần ức Tôn Sư nhập hạ trên cõi trời ao Lợi. - Con muốn nghe cho rõ ràng. - Năm ấy tại Kosambi có hai nhóm tỳ-khưu cứng đầu, tranh cãi, tranh luận về kinh và luật rất là ồn ào, nhiệt não. ức Thế Tôn đã đi vào rừng Pàrileyyaka để an cư một mình. - Vậy thì phải làm sao? - Có làm sao đâu mà ông lo lắng? Ở rừng, ức Thế Tôn có hai thí chủ dâng cúng trái cây và nước uống hằng ngày. ấy là một con voi chúa và một con khỉ chúa, chính chúng cũng đã chán nản bầy đàn nên vào đấy để tỉnh cư một mình! - Thật là kỳ diệu! - Còn vào hạ thứ bảy thì ức Thế Tôn lên cõi trời ao-Lợi, thuyết pháp độ cho Phật mẫu để đáp đền công ơn sinh thành. - Thật là kỳ diệu, thưa Tôn giả! Cõi trời ấy ở đâu? ức Thế Tôn lên xuống ra sao? Thuyết pháp ra sao? Xin Tôn giả bi mẫn giải thích. - Từ từ đã ông Tu-ạt - Ngài ưu ái nhìn ông - từ từ ta sẽ kể cho ông nghe Rồi Tôn giả kể - Khi hoàng hậu Ma-Gia hạ sanh hoàng tử Sĩ-ạt-Ta được bảy ngày thì hoàng hậu hóa sanh lên cõi trời âu-Suất làm một Chư Thiên nam. Cõi trời ấy gọi là ệ Tứ Thiên ường, một ngày ở đấy bằng bốn trăm năm ở nhân gian, và những hạnh phúc vật chất thì người đời không thể tưởng tượng được. Cõi trời ao-Lợi thì gọi là ệ Nhị Thiên ường, có cả thảy ba mươi ba tòa cung điện nên có tên là Cõi Trời Ba Mươi Ba. Cai quản cung trời này là Thiên Vương ế Thích mà nhân gian thường gọi là Ngọc Hoàng Thượng ế, ông ta cũng là đệ tử của ức Tôn Sư. Một ngày ở đấy bằng một trăm năm tại Châu Diêm Phù ề này. Phước báu Trời ao-Lợi tuy không bằng trời âu-Suất nhưng cũng gấp ngàn lần ở nhân gian... Trưởng giả Tu-ạt thốt lên - Thật là kỳ lạ! - Chư Thiên có sắc thân rất vi tế, nên người đời thường không thể thấy được. Tuổi thọ của họ dài lâu, hình hài thay đổi rất chậm nên không thể giảng đạo, nói pháp về lý vô thường, khổ não. Vì tâm của họ quá tế vi nên ức Tôn Sư phải giảng pháp vi tế - đấy là Tạng Luận - nói về những diễn tiến của tâm, con đường đi của tâm, những tâm vương, tâm sở, sanh diệt, nhân quả của các trạng thái tâm ấy. Mỗi ngày, ức Thế Tôn giảng ở cung trời ao-Lợi. Vị trời, tiền thân là Hoàng hậu Ma-Gia - từ âu-Suất bay sang nghe; sau hạ ấy Phật mẫu đắc quả Tu-à-Huờn! Trưởng giả Tu-ạt cứ ngẩn ngơ nhìn trời, sau đó lại hỏi - Loài người có nghe được Tạng Luận ấy không, thưa Tôn giả? - ược chứ! ức Thế Tôn có năng lực thần thông vô lượng vô biên. Cứ sau mỗi thời giảng, ức Thế Tôn xuống trần tóm tắt tinh yếu lại cho ta và ta giảng rộng ra cho đại chúng nghe. Suốt ba tháng ở nhân gian, ức Thế Tôn giảng xong Tạng Luận. - Thật là lạ lùng! Thật là cao siêu! Tối đến, bất kỳ nghỉ ở đâu, Tôn giả Xá-Lợi-Phất cũng tọa thiền. ôi khi Ngài trú định suốt đêm. Thi thoảng Ngài nằm nghiêng lưng vào trước canh ba, quay đầu về hướng Trúc Lâm tịnh xá - nơi có ức Thế Tôn và Trưởng lão Assaji ngự. Vào cuối canh ba, Tôn giả đi kinh hành cho đến sáng. Trưởng giả Tu-ạt lại được dịp tò mò chiêm ngưỡng. Ông ngạc nhiên sao vị ại ức này dường như không ngủ hay ít ngủ mà thần sắc lại tươi tỉnh, hồng nhuận như vậy! Tôn giả lại phải giải thích - Ta đã ngủ rất sâu đấy, ông Tu-ạt! Thiền định chính là sự nghỉ ngơi hoàn toàn của thân và tâm! Một khắc của thiền định bổ dưỡng cho sức khỏe con người hơn cả một đêm ngủ ngon, không mộng mị! Sống bên cạnh vị Thánh, lúc nào ông trưởng giả cũng thấy mát mẻ, an lành, và đức tin, niềm kính trọng đối với Tam Bảo ngày càng lớn mạnh ở trong ông. Hôm kia, sau khi Tôn giả Xá-Lợi-Phất đi bát về, họ dùng ngọ dưới một cội si già vươn tán rộng che phủ cả bến nước sông Hằng thì gặp một đám tang rất lớn. Người ta bỏ thi thể trên một cái giàn bằng cây, phủ vải trắng và phủ rất nhiều hoa. Một đám phu khiêng chừng vài mươi người đi giữa, bên sau là bà con cùng thân nhân quyến thuộc. Xung quanh và trước là mấy chục tu sĩ Bà la môn ăn mặc sang trọng, đầu quấn khăn trắng, chân đi giày và tất màu trắng. Trước nữa là một đám rước có dù, lọng các vị thần tôn trí trong mấy kiệu hoa, được đám nghệ sĩ ăn mặc sặc sỡ, diêm dúa tháp tùng, đánh trống, thổi kèn. Lại có cả mười cô vũ nữ nhà nghề ở trong các đền tế vừa đi vừa múa các vũ điệu huyền bí của thần linh... Không có một tiếng khóc. ám tang mà giống một cuộc hội tế, một cuộc vui! Rõ ràng là thân nhân quyến thuộc không phải đưa một đám ma vào cõi chết với những hình ảnh ghê rợn của Diêm Chúa cùng lũ đầu trâu mặt ngựa mà họ đang cung tiễn một linh hồn đến nơi an nghỉ cực lạc vĩnh hằng! ến bến nước, mọi người dạt ra, họ đặt thi thể xuống. Vũ, kèn, trống tạm ngưng và giọng tụng kinh trầm bỗng vang lên. ám phu khiêng, bây giờ, cột xung quanh giàn gỗ những thân chuối to, bưng từ từ xuống bến nước rồi thả nổi giữa sông. Tiếng kinh, lời cầu nguyện vang lên không ngớt trong lúc chiếc bè thi thể dần dần trôi ra giữa giòng... Những tiếng "aum, aum" tha thiết, thành kính bốc lên cao, lan giữa sông nước, vọng thấu trời xanh... Vị tu sĩ trưởng Bà la môn chủ tế, đầu đội mũ đỏ, khăn đỏ, áo đỏ; chấp tay xướng, rồi tất cả tu sĩ Bà la môn cùng tụng theo với nội dung như sau - Hỡi ấng Rama! Thượng ế Hằng Sinh! Là cha của muôn loài! Xin Ngài rủ lòng thương xót con cái Ngài! Xin Ngài tiếp độ vong linh! Xin Ngài tiếp dẫn vong linh! Xin Ngài phóng hào quang soi đường đưa vong linh đến cõi thiên đường cực lạc! Aum, aum! Trưởng giả Tu-ạt quay sang Tôn giả Xá-Lợi-Phất, hỏi rằng - Họ thành kính cầu nguyện như vậy mà ấng Rama có tiếp dẫn họ không, thưa Tôn giả? - Thượng ế với nghĩa hằng sinh như vậy thì không có đâu, ông Tu-ạt! Có thể đấy là Ngọc Hoàng Thượng ế trong quan niệm nhân gian. Có thể đấy là vị Phạm Thiên tối cao trong truyền thống tôn giáo của họ. Các vị ấy chỉ là vị trời thôi, một chúng sanh do phước báu hóa sanh hoặc do đắc định hóa sanh. Các vị thiên ấy rồi cũng phải chết, hết phước báu thì họ phải tái sinh trong sáu đường như tất cả chúng sanh khác. Chính họ cũng chưa cứu được mình huống hồ tiếp dẫn cho ai! - Cầu nguyện như vậy có năng lực không, thưa Trưởng lão? - Không có năng lực nào vượt thoát ngoài năng lực của nghiệp, này ông Tu-ạt! - Xin Trưởng lão giảng rộng cho con nghe. - Vâng! Ví như chiếc bè thi thể kia là một tảng đá nặng ngàn cân. Nếu ở bên này sông một trăm thầy Bà la môn, bên kia sông một trăm thầy Bà la môn nhất tâm cầu nguyện cho tảng đá kia được nổi. Tảng đá kia có nhờ cầu nguyện, có do năng lực cầu nguyện mà nổi lên mặt nước không, ông Tu-ạt? - Không thể nổi được, thưa Trưởng lão. - Cũng vậy, nếu một chúng hữu tình sát sanh, hại vật, lấy của không cho, trộm cắp, tà vạy, dối trá, ác độc... đến khi thân hoại mạng chung, do ác nghiệp, trọng tội mà y đã tạo, phải bị đọa vào bốn đường khổ. Trường hợp ấy, mấy trăm thầy Bà la môn nhất tâm cầu nguyện thì người kia có thể nhờ năng lực cầu nguyện ấy mà được sanh lên thiên đường không, hở ông Tu-ạt? - Thưa không thể. - Ví như có một thùng dầu đổ trên mặt sông, nổi trên mặt sông nhưng mấy trăm thầy Bà la môn kia cầu nguyện cho dầu bị chìm, thì dầu ấy có chìm không, ông Tu-ạt? - Thưa, không thể. - Cũng vậy, nếu có một chúng hữu tình sống không sát sanh hại vật, có lòng từ, biết bố thí, giữ giới, làm các hạnh lành, sống đời chân thật, hiền lương... đến khi thân hoại mạng chung, do thiện nghiệp ấy, y được sanh lên cảnh trời. ấy là điều hiển nhiên của định luật nhân quả, là cái tất yếu. Dẫu có hàng trăm thầy Bà la môn tụng kinh cầu nguyện đêm ngày mong cho người kia bị đọa, thì người kia cũng không vì vậy mà bị đọa vào bốn đường khổ, có phải thế không? - Thưa, giờ thì con đã hiểu rõ ràng. - Này ông Tu-ạt! Nhẹ thì được bay lên, nặng thì bị rơi xuống - đấy là định luật. Một người làm việc lành, chuyên làm các hạnh lành thì tâm hồn người ấy luôn luôn được hỷ lạc, mát mẻ, thư thái, nhẹ nhàng cho nên được sanh lên. Người làm việc xấu ác thì tâm hồn người ấy luôn luôn bồn chồn, nóng nảy, sợ hãi, bất an... Cái tâm ấy quá nặng nề nên phải rơi xuống thôi, có phải thế không? - Thưa, quả đúng vậy! Trên đường đi, thỉnh thoảng cả hai người phải dừng lại vì có nhiều nhóm tỳ-khưu trên đường ngược chiều bộ hành về Trúc Lâm tịnh xá. Nhìn những tu sĩ thuộc Giáo Hội của ức Bổn Sư, trưởng giả Tu-ạt dễ dàng nhận ra ngay vì cách khoác y trang nghiêm, tóc râu sạch sẽ và có một tác phong, cử chỉ, cách đi đứng rất khác xa với những đạo sĩ hành cước hay du sĩ ngoại đạo. Và họ cũng nhận ra Tôn giả Xá-Lợi-Phất qua hình dáng bên ngoài, hoặc có vị đã nghe danh, hoặc có vị đã từng gặp mặt. Tôn giả đã ân cần thăm hỏi, khích lệ, sách tấn; đôi khi phải nhiều thì giờ giảng cho họ nghe một số điểm phức tạp, tế nhị thuộc Kinh hoặc Luận. Thế là tầm vóc của vị Trưởng lão này càng ngày càng cao lớn trong mắt nhìn của ông Tu-ạt. Cũng đã vài lần các tu sĩ ngoại đạo chế diễu, nói móc đến ức Gotama nhưng Tôn giả Xá-Lợi-Phất đã nhẫn nại lắng nghe, sau đó tìm lời khôn khéo , từ bi để giáo hóa họ. Nói tóm lại là nhờ uy nghi của Ngài, tấm lòng của Ngài cùng uy lực của Giáo Pháp mà chúng đều phải nhu thuận, nể phục. Lòng của ông Tu-ạt rất vui, rất mát mẻ như bước đi trong ánh nắng ban mai chan hòa cùng đất trời, núi sông, cây cỏ... Kỳ thọ Cấp Cô ộc viên Sau khi đi một vòng thăm khu đất, Tôn giả Xá-Lợi-Phất nói với ông Tu-ạt - Kỳ diệu thay! Ông không những là người có một tấm lòng quảng đại mà còn có con mắt và cả đầu óc kỳ vĩ nữa! - Con không dám! Tôn giả khẽ nắm bàn tay con người khiêm tốn, khi họ cùng đi dạo với nhau - và nói rằng - Ông biết không! Ta lấy làm ngạc nhiên khi cả vùng ngoại ô Xá-Vệ đất đai mênh mông, bỏ hoang, vô chủ mà ông lại không chọn, lại chỉ chọn vùng đất cam chịu đổi vàng! ất này còn quý hơn cả vàng đấy, ông Tu-ạt! - Xin Trưởng lão chỉ dạy. Họ ngồi bên một con suối nhỏ, nước trong leo lẻo, đàn cá trắng đỏ vàng chao lượn nhởn nhơ. Tôn giả cúi xuống vốc một bụm nước - Nước này thơm ngọt và mát lành như nước của cung trời. Thuở xưa ta học về nghề thuốc nên ta biết rằng nước này uống vào sẽ lợi thận, thông tiểu, chắc răng, sáng mắt... nó còn lọc sạch dạ dày và đường ruột nữa. - Kỳ lạ thế ư? Tôn giả đi vài bước, bóc một mảng vỏ cây, chỉ cho ông Tu-ạt xem một số loài cây và một số loài hoa. - Các vỏ cây này, lá này và hoa này đều có những mùi thơm khác nhau do chất nhựa tiết ra khác nhau. Thứ thì muỗi mòng phải tránh xa, thứ thì khử tất cả mọi ô nhiễm, chất độc, thứ thì bảo vệ con người thoát khỏi các chứng bệnh ho hen, nhức đầu, sỗ mũi... - Thật là kỳ lạ! Bây giờ thì họ đang ngồi trên một tảng đá bằng phẳng, trước mặt là dãy núi cong cong che chắn cả hướng Tây Bắc. - Hướng này là hướng thường có gió độc ác phong, cuồng phong, hàn phong... nhưng dãy núi kia đã ngăn chúng lại rồi. Ngoài ra - Trưởng lão ngập ngừng, vốc một nắm đất lên xem - không biết là từ trong đất, trong đá hay trong cây, có một cái gì đó điều hòa được nhiệt độ, làm cho khí hậu ở đây mát mẻ quanh năm! Thật là lý tưởng, thật tuyệt diệu, thật là tốt cho sức khỏe của ức Thế Tôn! - úng vậy - trưởng giả Tu-ạt xuýt xoa - Tôn giả quả là bậc bác học, cái gì cũng biết. Trước khi mua đất này, con có hỏi ý kiến một thầy Bà la môn tinh thông địa lý, phong thủy, ông ta cũng nói như Tôn giả vậy. Ngài Xá Lợi Phất lại nói - ức Thế Tôn từ cung trời âu-Suất, lúc giáng thế, Ngài cũng chọn Hy mã lạp sơn, nơi tụ hội khí thiêng linh nhất của Châu Diêm Phù ề; còn ông, ông cũng biết lựa chọn một khu đất xinh tươi, một địa linh để sau này làm kinh đô cho Giáo Pháp. Công đức của ông lớn lắm, ông biết không? Trưởng giả Tu-ạt rất hể hả trong lòng. Bây giờ họ đi vào rừng cây. Quả thật, không khí như bốc hương, vạn vật êm đềm, bình lặng. Chợt Tôn giả Xá-Lợi-Phất hỏi - Ông cảm thấy trong người như thế nào? - Thưa, cảm thấy thư thái, sảng khoái; tinh thần như nhẹ lâng lâng... - úng vậy! ức Thế Tôn, các vị A-La-Hán muốn trú tâm thư thái thì các Ngài trú tâm thư thái, muốn trú tâm nhẹ nhàng, lâng lâng thì các Ngài trú tâm nhẹ nhàng, lâng lâng. Nhưng đại chúng, chư phàm tăng, cận sự nam, cận sự nữ thì không thể làm vậy, có phải thế không? - Thưa, vâng. - Do vậy, Giáo Pháp sẽ tăng trưởng rất vững mạnh ở đất này, đâm chồi nẩy lộc ở nơi này, đơm hoa kết trái phú túc, thịnh mãn... rồi sẽ lợi lạc vô cùng cho chúng sanh về sau. ứng nhìn những thế đất, chỗ uốn lượn của các ngọn đồi, màu xanh thẩm tươi mát của lá cây, Tôn giả Xá-Lợi-Phất nói - Giới luật của ức Tôn Sư có dạy rằng mỗi vị tỳ-khưu nửa tháng mới được tắm một lần vì khắp nơi nơi, chỗ nào cũng thiếu nước, nhưng đây thì không. Ở đây cho dù có mấy ngàn vị cũng dư thừa nước uống và nước sinh hoạt. Nếu biết chỗ, biết chọn đúng nơi để đào những chiếc hồ rộng thì hoa sen, hoa súng sẽ phô thắm hương sắc cả bốn mùa đấy, ông Tu-ạt! - Thật là kỳ diệu! Kiến thức của Tôn giả thật là kỳ diệu! Hèn gì ức Thế Tôn bảo rằng chỉ cần một ại ệ Tử của Như Lai là đủ! Bây giờ con sẽ rất sung sướng mà kiến tạo nơi đây thành một ại Tòng Lâm huy hoàng nhất Xá-Vệ. Ngày hôm sau, trưởng giả Tu-ạt cho mời năm thầy Bà la môn tinh thông thiên văn, địa lý, kiến trúc đến đảm nhận công việc. Họ hăng hái chọn đất, chọn hướng, vẽ họa đồ theo gợi ý của trưởng giả Tu-ạt. Họ làm rất nhanh, vì làm nhanh sẽ có phần thưởng xứng đáng. - Thưa Trưởng lão! Họa đồ xây dựng các thầy Bà la môn đã vẽ xong, tuy nhiên họ bày ra rất nhiều lễ cúng phiền phức. Xin Trưởng lão chỉ dạy cho con nghe về việc này? - Trước khi xây dựng, bảo họ đưa cho ta xem lại toàn bộ công trình họa đồ ấy, nhất là hương phòng của ức Thế Tôn và đại giảng đường. - Thưa vâng! - Còn các lễ cúng - chủ chốt là họ cúng các Sơn thần, Thổ địa. Sơn thần, Thổ địa cũng có đấy, ông Tu-ạt , tuy nhiên, họ cũng là một loại chúng sanh thôi. Nơi những chỗ núi non, rừng rậm, ao hồ, gò đống, cây cối, làng mạc, ruộng vườn... đều có những loại chúng sanh khác nhau ngụ cư. Thường họ là những Chư Thiên bậc thấp, những ịa tiên, những Thọ thần, những Atula, những Dạ-Xoa, những La-Sát, những loài Rồng. Chúng có thể hiền lành, thiện lương; chúng có thể hung dữ, ác đức. Chúng sống xung quanh ta, gần ta, nhưng ta không thấy vì sắc thân chúng vi tế lắm. Chúng có thể thân thiện với ta, hộ trì giúp đỡ ta mà cũng có thể chúng ghét ta, phá hoại ta! Này ông Tu-ạt! Nói chung, đấy là các loài phi nhơn. Thế gian thường sợ hãi chúng nhưng đệ tử ức Thế Tôn thì không bao giờ sợ cả. Khi nào ông làm phước cúng dường thì ông hãy nhớ hồi hướng phước báu đến cho họ. Họ cần phước báu ấy lắm. - Thưa vâng! Còn các lễ cúng như đầu súc vật các loại, mâm trái cây các loại... bày trên những cỗ bàn cao đến ngọn thì có lợi ích gì không, có hiệu quả gì không , thưa Trưởng lão? - Không hữu ích gì đâu, ông Tu-ạt! Mỗi loại chúng sanh có cấu tạo thân thể khác nhau, ăn uống khác nhau nên thực phẩm cũng khác nhau. Ví như các vị Phạm Thiên thì thân sắc của họ trong suốt, có hào quang hoặc có ánh sáng. Họ không ăn uống thực phẩm vật chất như cõi người mà họ "ăn uống" bằng các trạng thái tinh thần như lạc, hỷ, xả, thanh tịnh. Lạc, hỷ, xả, thanh tịnh là vật thực của các vị Phạm Thiên. - Ồ! Thật kỳ diệu! - Các vị Chư Thiên trong sáu cõi trời Dục Giới thì họ cũng thụ hưởng vật chất. Nhưng vật chất ở đấy rất là tinh khiết, tế vi, tối thượng, ngon quý vô ngần, thế gian quả là không bì được! - Xin Tôn giả cho ví dụ. - Ồ! Lại thế nữa! Này nhé, ông đã từng thấy con bọ hung say sưa chúi mũi, chúc đầu trong những đống phân bao giờ chưa? - Vâng, thấy ạ! - Ông đã từng thấy giòi bọ nhung nhúc làm một bữa tiệc thịnh soạn trong xác của một sinh vật sình thối chưa? - Dạ thấy ạ! - Chư Thiên sáu cõi trời Dục Giới nhìn xuống loài người, thấy vật thực của loài người cũng y như ta nhìn bọ hung, giòi bọ trong đống phân và trong xác chết của sinh vật vậy! - Ồ! Thật là kinh khủng! - Thân thể con người hôi hám, dơ dáy; tâm địa loài người dơ dáy, hôi hám... Tất cả xú khí ấy bốc thẳng lên trời cao cả trăm do-tuần. Cũng vậy, ta có việc mới bước vào hầm xí, Chư Thiên có việc mới dám bước xuống Châu Diêm Phù ề nầy! - Thưa vâng, con đã rõ. - Cho nên, súc sanh có vật thực của súc sanh, các loại Rồng, Dạ-Xoa, Sơn thần, Thổ địa... đều có những loại vật thực riêng, trong thế giới của riêng ho. Vật thực của loài người họ không dùng được. ức Thế Tôn dạy rằng, phước báu mà chúng ta đã làm, hồi hướng phước báu ấy đến họ thì phước báu sẽ biến thành thực phẩm riêng cho mỗi loài, mỗi loại. Họ sẽ theo đó mà tùy nghi thọ hưởng. Hồi hướng là việc cần phải làm, lễ cúng mâm cao cỗ đầy là việc vô ích. Ông hãy nhớ vậy nhé! - Thưa vâng! - Còn ức Thế Tôn và Tăng chúng thì ông khỏi lo. ức Phật và Tăng chúng thường có uy đức rất lớn. Có ức Thế Tôn và Tăng chúng ở đây thì các loài phi nhân kia phải chịu mình một phép, không dám hỗn hào, xấc xược, phá phách đâu. Sau này, chúng sẽ tìm ức Thế Tôn mà quy y nữa đấy. Rồi chúng sẽ trở thành một lực lượng hộ pháp cho Giáo Hội của ức Tôn Sư. - Lành thay! Con thật vô cùng hoan hỷ. * * * Cái tin ông trưởng giả Tu-ạt mua đất đổi vàng đã xôn xao cả kinh thành Xá-Vệ, đã chấn động lan xa cả mấy tiểu quốc. Nhưng xôn xao, chấn động nhất, bàn tán sôi nổi nhất là ở trong các giáo phái ngoại đạo, khi họ hay tin đất ấy đã được cúng dường cho Giáo Hội ức Gotama. Họ cảm thấy thất vọng, tức giận, ganh tỵ... vừa cảm thấy một mối nguy cơ, hiểm họa sắp gần kề. Giáo Pháp của ông Thế Tôn nào đấy mà đặt căn cứ địa ở đây, lại được sự tiếp tay của ông đại triệu phú giàu nứt đố đổ vách kia nữa thì chẳng mấy chốc họ sẽ không có chỗ dung thân! Hiểm họa đã đến với chúng ngoại đạo thật sự rồi ông triệu phú kia đã thỉnh được một cao đệ của ức Thế Tôn, một vị ệ Nhất ại ệ Tử thần thông quảng đại đích thân đến đây để xem xét, đôn đốc công trình xây dựng, dự định sẽ hoàn tất trước mùa mưa. Vậy là chúng họp bàn nhau những mưu kế để đối phó. Buổi sáng, Tôn giả Xá-Lợi-Phất đắp y, mang bát trang nghiêm đi vào thành phố. Theo dự định, Ngài sẽ không dừng lại một vài nhà để khất thực, mà Ngài sẽ đi vài con đường lớn để xem xét, lắng nghe dân tình. Bóng dáng một Sa môn xuất hiện uy nghi, và từ tốn trên đường phố Xá-Vệ quả thật đã làm cho dân chúng tò mò. Và có lẽ họ tò mò hơn khi nghe tin đồn đãi về một ông ại ệ Tử thần thông biến hóa của một tôn giáo mới - cả gan không tin Thượng ế và phỉ báng cả thần linh - đang có mặt ở đây. Mới một ngày mà họ đã được rỉ tai cho nhau phải xua đuổi tôn giáo ấy đi, không được thân thiện, không được cung cấp vật thực, ai trái lệnh thì thần linh sẽ vặn cổ, thần tài sẽ không vào nhà nữa và con cái họ sẽ bị tai nạn, tật nguyền, nạn nước, nạn lửa Thế là họ cứ thập thò, tụm năm, tụm ba... lấm lét nhìn Tôn giả đi qua. Lác đác đây đó từng nhóm côn đồ hung dữ cầm đùi, cầm gậy, sát khí đằng đằng. Thành phố thật là sầm uất. Rất nhiều tu sĩ thuộc nhiều giáo phái đi khất thực; gặp Ngài, họ đứng trố mắt nhìn như một hiện tượng lạ vì Ngài thanh sáng quá, tươm tất quá! Có một cái gì rất quý phái, rất hiền lành, rất khiêm nhu từ nơi phong thái, dáng đi của Ngài... làm cho nhiều người không thể ghét được, không thể xua đuổi được! Tuy nhiên, bởi sự hăm dọa nào đó, khi Ngài đứng lại trước cửa mọi nhà thì không ai dám đặt bát cả. "- Không sao! Ngài tự nghĩ. Dẫu không có vật thực thì đệ tử của ức Tôn Sư vẫn giữ tâm bình lặng như đất, và mở rộng lòng từ..." i thêm vài con đường nữa, vẫn không có chút ít vật thực nào. Thoáng nhìn dân chúng, Tôn giả biết là trưởng giả Tu-ạt nhận xét rất đúng họ thuần hậu, chất phác, nhưng xen vào đấy, trong bản chất vẫn thấp thoáng một chút gì hoang dã của núi rừng sơ nguyên, rất dễ sinh ra hung dữ và cuồng tín. ến một ngã tư đường, Tôn giả thấy một đám côn đồ tụ tập ở đấy. Chúng nguyền rủa - Ông Sa môn trọc đầu đê tiện! - Này con số xui dơ dáy, hãy cút khỏi thành phố! - ừng cho chó ăn nghe bà con! Con chó của ông Sa môn Cồ-àm thối tha ấy! Chưa thôi, chúng còn dàn hàng ngang và chận lại. Mặc cho chúng làm gì thì làm, Tôn giả Xá-Lợi-Phất vẫn trầm tĩnh bước đi. Ở nơi Ngài toát ra một uy lực lạ thường làm cho chúng hãi sợ, tự động thụt lùi rồi nhường lối cho Ngài. Những lời mạ lị, phỉ báng ở đâu đó cũng như chìm mất, tắt tiếng trong cổ họng! Từ một góc đường, có mấy tay mặt mày đỏ gay, hung dữ, mùi rượu xông lên nồng nặc, lao ra với đùi và gậy, chúng đánh xuống đầu và vai của Tôn Giả. Mọi người quanh đấy thất kinh la lên. Họ chạy bu lại. Ngài Xá Lợi Phất dừng chân, nhìn mấy tên say rượu rồi nói với mọi người - Không sao! Họ chỉ là người say rượu thôi, họ không biết họ làm gì đâu! Khi hết say họ sẽ không làm như vậy nữa! Nói xong, Ngài an trú chánh niệm trước mặt rồi lặng lẽ bước đi. - Hay cho bọn côn đồ dám mạo phạm bậc tu hành chơn chánh! Hoàng thân Kỳ-à trên chiếc xe hai ngựa bước xuống, sắc mặt giận dữ, quát tháo với cái đùi rung rung trong tay. ám côn đồ sợ hãi, bỏ chạy tán loạn. - Ngài Sa môn có sao không? Tôn giả Xá-Lợi-Phất chậm rãi đứng lại. - Xin Hoàng thân yên tâm! Thay mặt ức Thế Tôn, bần đạo hoan hỷ thọ nhận tấm lòng hào sảng của Hoàng thân khi cúng dường khu rừng cây! - Ngài Sa môn sao lại biết tôi? - Vâng, biết chứ! cám ơn Hoàng thân đã ra tay tương trợ, nhưng Ngài không có gì phải lo lắng cho bần đạo. Xin phép được kiếu từ, bần đạo còn có việc phải làm. Hoàng thân Kỳ-à đứng ngẩn ngơ trông theo vị Sa môn kỳ lạ. Với đùi và gậy, với sức đánh như vậy; với lời mạ lị, phỉ báng như vậy mà chỉ như những giọt nước rơi trên lá sen, không dính gì vào tâm của ông Sa môn ấy cả. Dân chúng thì cảm phục quá, thốt lên - úng là đức hạnh của một bậc chân tu. - Cái ạo ấy sao mà có vẻ hay quá nhỉ? - Tại sao người ta ngăn cấm chúng ta để bát cho vị Sa môn dễ thương kia? Hoàng tử Kỳ-à ngạc nhiên quay lại hỏi - Có việc như vậy thật sao? - Thưa Hoàng gia! Chúng tôi được rỉ tai, bị ngăn cấm, bị đe dọa đủ thứ. - Bọn côn đồ kia cũng từ âm mưu ấy sao? - Thưa vâng! Hoàng thân Kỳ-à nói to - Thật bọn chúng không còn coi luật vua, phép nước ra cái gì nữa! Xứ sở này tôn trọng tự do tín ngưỡng của mọi người. Ta báo cho dân chúng hay, nội vụ này ta sẽ tấu trình lên ức Vua ngay tức khắc. Bọn nào xúi giục dân chúng, chửi mắng, mạ lị, dùng đùi gậy với các vị Sa môn này, ngăn cấm sự đi lại hay ngăn cấm vật thực... thì quân đội hoàng gia sẽ trừng trị thẳng tay! Hãy thông báo tin này rộng rãi khắp thành phố. Ta là hoàng thân Kỳ-à , ta nói là ta làm, chưa có gì mà ta nói được lại không làm được! Tôn giả Xá-Lợi-Phất sau cả buổi sáng không ai để bát, thế là Ngài phải nhịn đói. Ra khỏi ngoại ô, Ngài xin nước uống rồi tìm một vườn cây yên tĩnh, lựa một bóng cây im mát, trải tọa cụ trên đám cỏ bằng, an trú niệm và nhập thiền. Lát sau, trưởng giả Tu-ạt tất tả chạy đến - Thưa Trưởng lão! Ngài có sao không? Con nghe tất cả mọi chuyện do hoàng thân Kỳ-à báo lại. Trưa nay, Ngài chẳng có gì để độ thực! Tôn giả Xá-Lợi-Phất đành phải mở mắt ra - Không sao đâu, ông Tu-ạt! Hãy về lo công việc của ông, còn đây là công việc của ta kia mà! - Thưa vâng! - Ông hãy yên tâm! Không ai có thể có khả năng làm hại đệ tử ức Tôn Sư cho dầu đó là Chư Thiên, Phạm Thiên, Ma quân hay loài người! i bát có vật thực hay không có vật thực cũng chẳng phải là vấn đề của một vị tỳ-khưu! Hiện giờ mục đích của chúng ta là nhiếp phục bọn ngoại đạo! Ông hãy biết rằng, từ bi sẽ thắng hung dữ, oán thù; hỷ xả sẽ thắng ganh ghét, tỵ hiềm; nhẫn nhục sẽ thắng tất cả mọi khó khăn, gai chướng; và dũng lực, ý chí sẽ thắng yếu đuối, ươn hèn... ức Tôn Sư đã từng dạy như thế. Ông hãy về chăm lo công việc kiến thiết, xây dựng kẻo ta sẽ buồn vì ông đấy! - Thưa vâng! Trưởng giả Tu-ạt không dám không tuân mệnh, chân bước đi mà mặt thì mấy lần ngoảnh lại. Ông tôn kính, cảm phục Trưởng lão xiết bao và đồng thời hai hàng nước mắt lại tuôn chảy. Quả thật, đức tính vị tha, quảng đại, cao thượng bao giờ cũng làm xúc động những trái tim chân thật và hướng thượng. Khi Tôn giả Xá-Lợi-Phất đang an trú định thì chúng ngoại đạo lại tìm đến vây quanh. Một vài người lấy đá sỏi chọi vào, nói nhiều lời thô tục nhưng Ngài vẫn bình tịnh như không... ột nhiên lúc ấy có hai đạo sĩ tóc búi, dáng dấp phương phi đường bệ xô vẹt đám đông bước vào, chăm chú nhìn Tôn giả Xá-Lợi-Phất. Một người nói - ây chính là Tôn giả Xá-Lợi-Phất, đệ tử của ông Cồ-àm. Người kia hỏi - Nghe nói pháp thuật cao siêu lắm phải không? ám đông có người chỏ miệng vào - úng đấy! ùi, gậy, đá sỏi không làm ông đau! Chửi mắng, phỉ báng ông coi như pha! - Nếu lỡ ông ấy tức giận, ông trổ pháp thuật thì chúng ta chạy đâu cho thoát? - Coi chừng đấy! Người mà dám đơn thân độc mã đến xứ này tuyên truyền cho một tôn giáo mới thì không phải là kẻ tầm thường đâu! - Tôn giáo mới ấy ra sao? - Sao ông ta đẹp quá vậy? - Hắn có theo kinh điển Vệ-à không? ám đông lao xao như vỡ chợ. Người đạo sĩ tóc búi cất giọng lớn - Nghe đây, chư đạo hữu! Cách đây mấy tháng tôi có việc ở Vương-Xá thành, nghe nói có một vị Phật, một ấng Toàn Giác xuất hiện ở trên đời đấy là ông Cồ-àm, thuộc dòng dõi Thái Dương, giai cấp Sát-ế-Lỵ, họ là Thích Ca, ở một vương quốc xinh xắn mỹ lệ bên cạnh chúng ta đây thôi - ấy là thành Ca-Tỳ-La-Vệ. Ông Cồ-àm này đã được phong làm thái tử, nhưng ông đã khẳng khái từ bỏ vương vị, vợ đẹp con thơ, điện ngọc lầu vàng như quẳng chiếc áo rách. Ông tu khổ hạnh sáu năm, sau đó thành đạo dưới cội cây Bồ ề bên sông Ni-Liên. Từ đó ông gióng một tiếng trống Pháp chưa từng được nghe- mà họ gọi là Tiếng Trống Bất Tử - đầu tiên độ cho năm vị đại đạo sĩ, hiền triết nổi danh ở vườn Lộc Giả... - Ồ! Một số người kinh ngạc vì trong bọn họ đã có người nghe danh năm anh em Kiều Trần Như. Người kia cất giọng rành rõi - Sau đó, ông tiếp tục độ cho những ông hoàng quý tộc, những trưởng giả giàu sang... thành tỳ-khưu, không biết cơ man nào mà kể! Ông hô "Lại đây, này tỳ-khưu!" thế là các vị đó tự nhiên râu tóc rụng hết, y áo đỏ chói như san hô ở đâu đó không biết, trong chớp mắt đã có sẵn trên người họ, rồi bát nữa, rồi tám món vật dụng của thầy tỳ-khưu nữa, đều có đủ hết, mới keng! Như mới mua từ thành Xá-Vệ này vậy! - Kỳ lạ! úng là pháp thuật rồi! Người thuyết trình viên được dịp cao giọng - Chư vị có biết Con Rắn Thần bảo vệ lửa thiêng trong đền thờ thần lửa của đạo sĩ tóc búi không? - Biết chứ! Con Rắn thần ấy to bằng cột đền, dài mười cái đòn gánh, trên đầu có cái mào đỏ cao cả sải tay, khi rắn phì hơi một cái thì lửa tuôn ra có ngọn và khói bốc lên mịt mù như thần mây hóa phép! - Chư vị! Thế mà ông Cồ-àm đã từng ở một đêm với Thần Rắn ấy, sáng ngày Rắn Thần nằm bên chân ông ta ngoan ngoãn như một chú mèo con! - Khiếp! - Còn ba Ngài ại Ca-Diếp cùng một ngàn đồ chúng của họ bây giờ trở thành đệ tử của ông Cồ-àm ráo trọi! - Này! Ngài ạo Sĩ có lầm không đấy! - Lầm sao được! Thần thông của ba Ngài ại Ca-Diếp chỉ là trò trẻ con đối với ông Cồ-àm! Chính mắt tôi trông thấy mà! - Thần thông ấy như thế nào? - Nói ra chư vị cũng không tin đâu! - Cứ nói cho chúng tôi mở rộng tầm con mắt. - Này nhé, hôm đó, hôm đó ông Cồ-àm đã thò tay lấy quách cái mặt trời bỏ vô bình bát của mình rồi đậy nắp lại! - Thật không đấy! Ngài có khoác lác không đấy! - Hèn gì hôm ấy tôi thấy mặt trời đi ngủ sớm, thiên địa tối om om! - Thần thông như thế nào nữa? Người kia lại được dịp trổ miệng lưỡi - Khi đi đến sông Hằng, ông Cồ-àm thò bình bát xuống, thế là nước cả dòng sông Hằng cuồn cuộn tuôn chảy vào đấy. Sông thì cạn ráo mà bình bát thì nước mới lưng lửng! Eo ôi! Nhìn xuống sông mới khiếp; nào kình ngư, cá sấu, thuồng luồng, tôm cá, ếch nhái... nhảy loi nhoi, trườn bền bệt, quẫy lung tung... thật là chuyện chưa từng thấy! - Ớn thiệt! - Có nói quá không đấy! - Tôi thấy sao thì nói vậy. Mà còn nữa nhé! Nhờ thần thông quảng đại như vậy nên vua Bình Sa, các quan đại thần, hoàng tộc, binh lính mấy vạn người đổ xô đến quy y ông Cồ-àm hết ráo. Còn Tôn giả Xá-Lợi-Phất đây cùng với ông Mục-Kiền-Liên là hai trưởng giáo Bà la môn sừng sỏ ở Upatissa và Kolita cũng trở về quy giáo ông Cồ-àm với đồ chúng hai trăm rưỡi người. - Có lẽ là hiện thân của thần Krishna chăng? - Hay là con cái của thần Rama? Tôn giả Xá-Lợi-Phất lúc ấy đang trú "quang định" nên tự thân Ngài phát quang, càng trú sâu thì vùng ánh sáng trắng càng tỏa rộng... - Coi kìa! - i thôi các bạn ơi! ừng có chọc thần linh mà khốn! - Xin Ngài tha tội cho chúng con! Chúng ngoại đạo bây giờ mới sụp xuống, vái lạy hết lòng thành kính. - Ba vạn đồng tiền, từ nay chúng con không dám đụng đến các vị Sa môn của tôn giáo này nữa. Thế rồi bọn chúng kéo đi. Quân binh của nhà vua rầm rập các ngã đường. Những ống loa được lan truyền đi khắp mọi nơi, thông báo nghiêm lệnh của ức Vua về vấn đề tự do tín ngưỡng và truy lùng bọn côn đồ hành hung Tôn giả Xá-Lợi-Phất. Suốt đêm, Tôn giả Xá-Lợi-Phất được yên ổn. Và ngày hôm sau khi đi bát, dân chúng vui sướng đặt bát cho Ngài. Những phẩm chất cao thượng của Ngài đã được dân chúng đồn đãi, thêu dệt làm cho danh tiếng của Ngài càng thêm chói lọi. Người ta còn truyền miệng nhau về thần thông biến hóa lạ lùng của Ngài nữa! Chúng ngoại đạo, tiểu nhân đã cố hại bậc Thánh thật chẳng khác gì quăng đá lên trời, đá rơi xuống đầu chúng; chẳng khác gì nhổ nước bọt ngược chiều gió, tự làm hoen lấm mặt mày! Nhẫn nhục và từ bi là tất thắng vậy! Trưởng giả Tu-ạt có lẽ là người mừng vui hơn ai hết sau biến cố ấy. Tuy nhiên, Tôn giả Xá-Lợi-Phất nhìn xa, thấy rộng hơn ông - Chúng chưa dễ dàng bỏ cuộc đâu! Ông trưởng giả hãy coi chừng chúng sẽ phá phách công trình xây dựng! - Xin Trưởng lão an tâm! Hôm qua hoàng thân Kỳ-à đã tức tốc tâu trình nội vụ lên ức Vua. Và Ngài đã cho quân lính đến đây để bảo vệ công trình. - Có nên làm thế không, ông Tu-ạt? - Thưa, con hiểu. Con chỉ sử dụng gia nhân và người làm công. Con đã trả lương thật cao để chúng sốt sắng, nhiệt tâm với công việc bảo vệ. - Hay lắm! Giỏi lắm! Ông Tu-ạt! Tấm lòng ông dịu dàng như ánh trăng mà trí tuệ ông thì sáng như gương! ược vị Thánh ca ngợi nhưng ông Tu-ạt lại rất mực khiêm cung - Con thật không dám thế! Thế là công trình kiến thiết "Kỳ Thọ Cấp Cô ộc Viên" khởi công tốt đẹp. Trưởng giả Tu-ạt cho vời những thợ thầy nổi danh khắp các tiểu quốc. Ông đặt mua vật liệu xây dựng quý giá và chắc bền ở nhiều thành phố, ngày đêm ngựa xe nườm nượp vận chuyển về. Hàng ngàn người làm việc đều được trả lương hậu hỷ, ăn uống đầy đủ. Không có một lời than thở. Không thấy xảy ra các cuộc ẩu đả, tranh cãi nhau. Trên dưới răm rắp một lòng. Tâm ý hòa bình. Mây lành phơi phới. Tiến độ công việc nhanh chóng như có phép lạ. Hôm kia, vào buổi sớm, trên một mô đất cao trước cổng tịnh xá, trưởng giả Tu-ạt phát hiện có sáu nhành liễu ai cắm lên ở đấy. Một nhóm trẻ nít đang bu quanh. Ông Tu-ạt hỏi - Của ai cắm đấy các con? - Mấy ông đạo, họ vừa bỏ đi! Trưởng giả tức tốc báo cho Tôn giả Xá-Lợi-Phất hay. Ông cũng biết đó là dấu hiệu thách thức của chúng ngoại đạo. Ngài Xá Lợi Phất nói - Việc này trước sau gì rồi cũng xảy ra. Ông hãy ra bẻ đọt cành liễu và cắm ngược cả sáu nhánh trở lại trên mô đất. - Thưa, tại sao ta làm vậy? - Cắm ngược nhành liễu lại chỗ cũ là ám chỉ chúng ta sẽ đàm đạo trong tinh thần tương kính, ôn hòa! Yên lặng một lát, trưởng giả lại nói - Nếu ta bẻ gãy hoặc ta không nhổ? - Bẻ gãy là khinh thường họ. Không nhổ là tự ý thua cuộc. Và như vậy thì ta phải cuốn gói ra đi khỏi thành phố này, cuốn gói cả công trình xây dựng, cuốn gói luôn cả Giáo Pháp của ức Tôn Sư! - Vậy ra Trưởng lão chấp nhận một cuộc luận tranh? - Ông không thấy đó sao, không chỉ một, mà là sáu cuộc. Trưởng giả Tu-ạt có vẻ bần thần lo nghĩ. Tôn giả Xá-Lợi-Phất lại trấn an - Ông cứ ra ngoài mà làm theo lời ta dặn và hãy yên tâm! ệ tử của ức Tôn Sư không phải chỉ nhổ có sáu cành liễu ít ỏi ấy, mà sẽ còn nhổ trăm trăm nghìn nghìn nhành liễu trên khắp toàn cõi Châu Diêm Phù ề, và vĩnh viễn không bao giờ chiếm bại! Thấy nói vậy ông Tu-ạt vẫn còn bất an, Tôn giả Xá-Lợi-Phất nhẹ vỗ vai ông - Này ông triệu phú! Trước khi quy y làm môn hạ ức Tôn Sư, ta và Mục-Kiền-Liên vốn là những trưởng giáo Bà la môn được gần xa biết tiếng về sức học. Có thời, ta và Mục-Kiền-Liên lang thang khắp toàn cõi Châu Diêm Phù ề, đã gặp rất nhiều chân sư, đạo sư của thiên hạ. Ta và Mục-Kiền-Liên đã từng luận tranh với họ, mặc dù chúng ta không muốn luận thắng họ, nhưng họ cũng chưa hề luận thắng được chúng ta! Lại nữa, ức Tôn Sư, một đấng Toàn Tri Diệu Giác, không có gì hướng tâm đến mà Ngài không biết; vậy nếu ở đây công việc khó khăn, sức ta không làm nổi thì ức Tôn Sư đã cắt cử người khác rồi, thảng hoặc, tự ức Tôn Sư sẽ dùng thần thông và sẽ có mặt lúc cần thiết. Chẳng có gì đáng ngại phải không? - úng vậy, giờ thì con hoàn toàn yên trí. Sáu nhành liễu được cắm ngược trở xuống không bao lâu thì họ lục tục kéo đến. Họ, chính là đại diện cho sáu tông phái lớn nhỏ có mặt ở thành Xá-Vệ, Tôn giả Xá-Lợi-Phất nghĩ vậy. Nhưng khi họ đến, Ngài hơi ngạc nhiên là họ rất còn trẻ, đủ mọi thành phần, sắc phục phức tạp và rất khó xác định là đại biểu cho ai. i theo họ, có lẽ là đồ chúng hoặc bằng hữu, lại toát ra cái tĩnh lặng, ôn hòa chứ không hung dữ như côn đồ trên đường phố. Trên một đám đất bằng, dưới những tàn cây cổ thụ râm mát, họ vây quanh Tôn giả Xá-Lợi-Phất. Một người từ trong đám bước ra, cung tay hỏi - Tôn giả chính là Xá Lợi Phất, ại ệ Tử của ức Thế Tôn? Người hỏi rất nhã nhặn và lễ độ, quấn trên vai hờ hững một chiếc phấn tảo y rách nát xuống tận đầu gối; người gầy ốm, thanh tú, đôi mắt rất sâu, tóc dài quá vai... - Hiền giả có phải là một hành giả Yogi thuộc phái Du-Già? Vâng, Xá Lợi Phất chính là tôi. Người kia mỉm cười, lặng lẽ ngồi xuống theo thế kiết già - y không lót tọa cụ - trả lời - Chúng tôi rất kỉnh trọng và cảm phục dấu hiệu hòa hiếu của Tôn Giả! Chúng tôi là gì mà dám đến đây luận tranh với ấng ại ệ Tử của ức Phật! úng là tôi thuộc phái Du-Già - y đua tay chỉ một số người chung quanh - và bằng hữu huynh đệ của chúng tôi cũng vậy, cốt ý đến nghe để học hỏi. Cuối cuộc luận tranh chúng tôi xin được hỏi vài điều trong Giáo Pháp của ức Thế Tôn. Họ gồm bảy người, đều là những hành giả yogi khổ hạnh. Phái nầy đầy dẫy khắp nơi, đi đâu cũng gặp. Họ thường mặc áo vải gai thô, mặc áo bằng da con sơn dương, mặc áo bằng vỏ cây tirita, mặc áo bằng cỏ cát tường bện lại, mặc áo bằng những tấm gỗ nhỏ, mặc áo bằng tóc bện, đuôi ngựa bện, lông cừu bện... Họ nhổ râu tóc hoặc để râu róc mọc tự do. Họ ngủ trên giường gai, ngủ trên đất. Họ tiết chế ăn uống ngày ăn một lần, bảy ngày một lần; một vài muổng cơm, một vài vá canh Nhưng những đạo sĩ khổ hạnh này dung mạo lại không xấu xí, nói năng lại rất điềm đạm, ôn hòa; toát ra một vẻ gì đó có chân tu, có thực học... Họ đến ngồi lặng lẽ, kiết già sau lưng vị đại huynh của mình, có lẽ vậy! Ngài Xá Lợi Phất thân thiện đáp lời - Chư hiền là những hành giả yogi trẻ tuổi, trí thức, đạo hạnh; tôi sẽ rất vui sướng mà trao đổi giáo pháp với chư hiền. Một người khác bước ra - Chúng tôi cũng không tranh luận. Chúng tôi nghe rằng Giáo Pháp của ức Thế Tôn là "Diệt Khổ" như mục đích tối hậu của chúng tôi. Còn về nhận thức thì Giáo Pháp của ức Thế Tôn là "Vô Ngã" mà chúng tôi cũng "Vô Ngã". Vậy thì hai quan điểm triết học về vô ngã có gì khác biệt nhau? Chúng tôi chỉ muốn tìm hiểu về điều đó thôi. Nhóm này chừng năm người. Người dẫn đầu tuổi độ trung niên, cao ráo, phương phi; tóc râu sạch sẽ, đôi mắt có thần sắc, vầng trán cao; choàng cẩn trọng chiếc y màu trắng đã ngã vàng. Những người kia cao thấp, gầy mập khác nhau nhưng thái độ chung cũng bình lặng, ôn hòa. Tôn giả Xá-Lợi-Phất cung tay đáp lễ - Chư hiền giả có phải là đệ tử của giáo chủ Kapila, một luận sư uyên bác của phái Số Luận nổi danh khắp toàn cõi Châu Diêm Phù ề? - Vâng! Chính thị! ôi mắt tinh tường của Tôn giả thật đáng khâm phục! - Chư hiền! Thật không dám vậy đâu. Vì mục đích "Diệt Khổ" của chúng ta giống nhau nhưng nhận thức "Vô Ngã" của chúng ta hoàn toàn khác nhau đấy. Vô Ngã của quý giáo là quan điểm, là chủ trương, là triết học. Quý giáo đã liệt kê ra hai mươi lăm thực thể của một chúng sanh. Hai mươi bốn thực thể đầu tiên liên kết với nhau như một mắc xích, là thành phần vật chất, là vô ngã; nhưng thành phần thứ hai mươi lăm, quí giáo lại bảo nó là thần ngã, siêu ngã, là nguyên lý phổ quát, là năng lực biến hóa hằng hữu, bất sinh bất diệt, có phải thế không? - Thưa vâng! - Giáo Pháp của ức Tôn Sư không phải là quan điểm, là chủ trương, là triết học, là luận số, là lý giải, là tư tưởng... ức Thế Tôn vì thấy như thực nên nói ra toàn bộ cái như thực về thân và tâm ấy - tức là về toàn bộ đất nước lửa gió, cảm giác, tri giác, ý chí, nhận thức - tất cả chúng đều là vô ngã. Thần ngã, siêu ngã ấy không có mặt trong Trí Tuệ của ức Tôn Sư! Khác nhau là khác ở chỗ ấy, thưa chư hiền! Các đạo sĩ thuộc phái "Số Luận" nín lặng, họ nghĩ trong tâm rằng "Chưa chừng về giáo pháp phái Số Luận và mọi triết học, quan điểm xung quanh nó, vị Tôn giả này còn hiểu rõ hơn chúng ta là khác." Bèn từ tốn nói - Cuối cuộc tranh luận, chúng tôi xin được nghe và học hỏi thêm từ kiến giải của Tôn Giả. Họ trải năm tấm tọa cụ xuống rồi lặng lẽ ngồi kiết già, trầm mặc và an tịnh. Một số người đến đây tuy bên ngoài có vẻ hòa hiếu mà trong tâm họ là quyết thắng, nhưng khi thấy hai nhóm giáo phái có tiếng là sừng sỏ nhất đã sớm bị "hạ phong" trước uy lực của Tôn giả thì họ cũng cùng chung một tâm lý là hơi "khớp"! - Trí tuệ sáng sủa thì nhận thức mới sáng sủa. Nhận thức muốn được sáng sủa thì lý luận phải sáng sủa. Lý luận sáng sủa, nhận thức sáng sủa thì mới tìm ra Con ường đến Niết Bàn - có phải vậy không Tôn giả? Ngài Xá-Lợi-Phất mới nghe đã biết đấy là miệng lưỡi của phái "Luận Lý" rất nổi danh đây đó. Ngài đưa mắt nhìn thấy người hỏi là một vị đạo sĩ mày cao mắt sáng, da trắng, môi mỏng, thần sắc rất trang nghiêm, quàng chiếc y sậm, sạch sẽ, tươm tất. - Con đường đến Niết Bàn phải đi qua một đạo lộ nghiêm túc, cần tu chứng, liễu tri chứ không thể nào đi bằng con đường lý luận của "ngũ đoạn luận" như quý phái "Luận Lý học" chủ trương đâu, thưa hiền giả! - Câu đáp vừa rồi của Tôn giả không phải "lý luận" là gì? Dẫu Tôn giả có trườn uốn cách nào cũng không đi ra khỏi con đường của phái chúng tôi! - Trình bày khác với lý luận, thưa hiền giả! - Khác nhau ra sao? - Trình bày là vì thấy, vì biết, vì đã thấy đã biết; còn lý luận là vì chưa thấy, chưa biết! - Xin được giải thích rõ hơn. Tôn giả Xá-Lợi-Phất chợt mỉm cười quay sang hỏi vị đạo sĩ ấy - Trước khi trả lời, hiền giả có thể cho biết hiền giả quê quán ở đâu không? Vị kia dẫu ngạc nhiên nhưng vẫn đáp - Quê tôi ở Ba-La-Nại. - ường đến Ba-La-Nại có xa không? Phải bao nhiêu đường đất đi bộ? Bao nhiêu con sông phải vượt qua? - Không xa lắm, mấy chục do tuần thôi, chỉ cần qua hai con sông nhỏ, có mấy thị trấn sẵn xe ngựa kéo, còn đa phần là đi bộ, lối đi cũng dễ dàng lắm. - Cám ơn hiền giả đã "trình bày" cho nghe rất rõ ràng con đường đến Ba-La-Nại. Sở dĩ hiền giả trình bày được rõ ràng như vậy là vì hiền giả quê quán ở đấy, từng sống ở đấy. Như vậy thì đâu phải hiền giả "lý luận" con đường về Ba-La-Nại? Cả hội chúng bất giác vỗ tay ngợi khen Trí Tuệ sắc bén của Tôn giả. Vị đạo sĩ ngẩn ngơ một hồi rồi quỳ sụp xuống ôm lấy chân Tôn giả - Chỉ cần một ví dụ nhỏ của bậc Trí là đã giúp cho chúng tôi - cả huynh đệ chúng tôi - đôi mắt chợt sáng ra. Rất tri ân Tôn giả vậy! Rồi chúng tôi sẽ tái ngộ Tôn giả sau. Nói xong, cả sáu người lặng lẽ đến nhổ cành liễu rồi bỏ đi. ám đông yên lặng rất lâu trước biến cố đó. Chợt một đạo sĩ to lớn, cằm vuông, râu hàm én, mặc y màu đất nung, cất giọng ồm ồm - Sự vận động, sinh hóa của vạn hữu có ý chí hay không có ý chí, thưa Tôn giả? - Hiền giả hãy xác định rõ ý chí ấy là ý chí của Thượng ế, ý chí của cá nhân, ý chí của các định luật, hay là ý chí của các năng lực mù quáng, vô hình? - Tôi... tôi cũng không rõ! Chắc là ý chí của Thượng ế! Tôn giả Xá-Lợi-Phất cất giọng ôn tồn - Chính hiền giả cũng chưa nắm vững được câu hỏi của hiền giả. Lỗi ấy không phải là lỗi của hiền giả đâu. Tôi đã từng tham vấn nhiều vị uyên thâm thuộc phái "Phân Biệt Luận, Thắng Luận" của quý giáo, và chính họ cũng mù mờ như vậy. Quý giáo chủ trương rằng ngoài "nguyên tử và chân không" ra, không có gì hết. Rồi quý giáo bảo rằng các nguyên tử ấy là bất diệt, nó vận động, sinh hóa ra vạn hữu! Tuy bảo vậy nhưng quý giáo cảm thấy không ổn, vì các nguyên tử vốn là cái mù quáng, nhưng cái mù quáng tại sao lại sinh hóa vạn vật muôn loài, cây cỏ trong một trật tự kinh khiếp, kỳ lạ đến như vậy? ến đây quý giáo lại lúng túng, hoài nghi... nên quý giáo chợt nghĩ rằng "hay là do ý chí của Thượng ế"? Thưa hiền giả! Quả thật thế gian này có sự tham dự ý chí của Thượng ế hay không có tham dự ý chí của Thượng ế thì những khổ não trong thế gian, trong chúng ta vẫn tồn tại bất động ở đấy, từ nghìn xưa đến nghìn sau. Vậy thì ích gì những quan điểm triết học đúng hoặc sai, có hoặc không, có phải thế chăng? Giáo Pháp của ức Tôn Sư không xây dựng từ các quan điểm triết học, không giải thích thế giới hữu biên hay vô biên, không phân tích đất nước lửa gió, thân thể con người, vạn hữu thành những chi li phân tử, nguyên tử! Giáo Pháp của ức Tôn Sư chỉ được gói gọn trong bốn sự thật sau đây Sự thật về Khổ, Sự thật về nguyên nhân Khổ, Sự thật về diệt Khổ và sự thật về con đường đi đến diệt Khổ. Chỉ có vậy thôi! Giáo Pháp của ức Tôn Sư chỉ nhằm giải thoát những khổ đau vô cùng tận của chúng sanh trong ba cõi sáu đường. Vậy ai là người đau khổ hãy đến với Giáo Pháp của ức Tôn Sư để tìm ra phương thuốc diệt khổ. Ai không đau khổ thì đừng đi đến. Tất cả chúng ta đều tự do...! Lời diễn giảng của Tôn giả Xá-Lợi-Phất toát ra một năng lực trí tuệ và từ hòa làm cho hội chúng cảm thấy mát mẻ. Vị đạo sĩ môn đệ phái "Phân Biệt Luận" và những huynh đệ của họ đều ngồi nín lặng họ đã "bất an" với giáo pháp của họ mất rồi! Chợt một giọng nói cất lên - Chúng tôi là đại biểu cho phái Mimansa Thắng Man, chúng tôi quan niệm rằng trí óc của con người là khí cụ quá nhiều nhược điểm. Lý trí con người cũng vậy, nó chính là cô gái bán phấn buôn hương, gặp ai có tiền là nó đi theo ngay! Là tu sĩ, chúng ta đừng nên tin nó, vì nó không sản sinh ra được một "tri thức" , một "chân lý" nào hết. Chúng tôi cũng cực lực lên án bọn vô tín ngưỡng, bọn tà giáo, bọn hoài nghi, bọn hư vô chủ nghĩa, bọn ngụy biện, bọn vô thần, bọn duy vật... Chúng phỉ báng thần linh, thượng đế mà sống đời đam mê nhục dục, kiêu căng, sống đời xa hoa hưởng thụ... Thưa Tôn giả! Con đường của chúng tôi không đi qua tâm địa phản trắc của cô gái điếm trí óc, không lần mò vào mê cung rắc rối của luận lý; chỉ có sự minh triết và an tĩnh của tâm hồn là quý báu, là lộ trình chơn chánh, có phải thế không hở Tôn Giả? Ngài Xá-Lợi-Phất nhìn qua, thấy người hỏi là một đạo sĩ da trắng xanh - có lẽ quanh năm trong đền tế - mặc y màu trắng, tóc tai tươm tất, gọn ghẽ... Ngài nói - Con đường ấy là thực hành theo các hình thức nghi lễ cổ truyền một cách kính cẩn, nghiêm túc và giữ đức tin bất động với Thượng ế chí tôn, phải vậy không, thưa hiền giả? - Sao... sao Tôn giả biết rõ vậy? - Thưa hiền giả! Con đường ấy chính tôi đã đi qua, cha tôi đã đi qua, hàng ngàn tu sĩ thuộc căn cơ đức tin trong truyền thống đã đi qua. Trước đây tôi là một trưởng giáo Bà la môn ở Upatissa, một giòng dõi cổ kính còn duy trì một gia tài kinh điển với tất cả mọi nghi lễ thờ cúng một cách đúng đắn, trang nghiêm nhất. Thế nhưng, từ thế hệ này sang thế hệ kia, chẳng có ai tìm ra được sự minh triết và sự an tĩnh tâm hồn! Còn hiền giả thì sao - các huynh đệ của hiền giả ở đây nữa - chắc đã tìm ra được sự minh triết và sự an tĩnh tâm hồn rồi chứ? Nghe Tôn Giả đặt câu hỏi, họ im lặng không trả lời. Dù sao, các tu sĩ tu theo giáo phái này thường sống tri túc và họ rất chân thực. Cho nên, một người đứng lên thổ lộ - Quả thật chưa tìm ra Tôn giả ạ! Chúng tôi vẫn còn đau khổ và bất an! Chúng tôi sẽ có ngày trở lại đây học hỏi Giáo Pháp Diệt Khổ của ức Thế Tôn. Nói thế xong, họ đến rút một nhành liễu nữa rồi bỏ đi. Không hẹn nhau, bốn nhành liễu còn lại cũng lần lượt được rút lên. Một thanh niên đạo sĩ cất giọng rổn rảng - Thật đã ê mặt chưa? Khi chưa đến đây thì ai cũng hùng hùng hổ hổ, đến đây gặp đệ tử ông Cồ-àm, ai ai cũng khép nép, rụt rè, sợ hãi như chuột thấy mèo! Các người bảo tranh luận, sáu cuộc tranh luận mà có cuộc tranh luận nào đâu? Mới ló cái đuôi nào ra là ông Sa môn vung đao chặt đứt ngay cái đuôi ấy! Coi chừng sẽ không có một mảnh đất cắm dùi ở cái thành Xá-Vệ này! Sợ gì ông Sa môn trọc đầu đê tiện kia chứ? Cứ cãi phứa đi, cãi càng đi! Phải cũng cãi mà trái cũng cãi! Cứ cãi tưới hột sen đi! Phải làm như vậy mới đúng! Rồi dân chúng, đạo hữu, tín đồ của chúng ta sẽ rêu rao chỗ này chỗ kia rằng "cuộc luận tranh thật là nẩy lửa, cuộc luận tranh thật là bất phân thắng bại!" Mà bất phân thắng bại là chúng ta thắng rồi! Vì sao vậy? Vì chúng ta là đệ tử hạng năm, hạng bảy, hạng tôm tép, mà luận tranh ngang hàng với ại ệ Tử của ông Cồ-àm! Hãy xông lên mà cãi! Dựng cao cành liễu mà cãi! Có một đạo sĩ trung niên nãy giờ hoàn toàn ngồi yên lặng không góp ý một lời, khí sắc rất an tĩnh, bây giờ mới mở giọng trầm ấm, vang vang như chuông đồng - Người huynh đệ trẻ tuổi không được hỗn láo! Không có một giáo phái nào trên toàn cõi Châu Diêm Phù ề này lại có cái thứ ngôn ngữ đầu đường xó chợ như huynh đệ! Cuộc nói chuyện hôm nay là giữa các bậc trí giả với nhau, ai cho phép miệng lưỡi côn đồ như huynh đệ chỏ vào? Bần đạo yêu cầu ai là huynh trưởng của người trẻ tuổi ấy phải biết xử lý môn hộ để không còn những lời bẩn tai phạm thượng đến Tôn giả đây, một nhân cách vô song, một trí tuệ vượt bậc, một đức hạnh hiếm có trong Giáo Hội của ức Phật Tổ Cồ-àm! Người đạo sĩ thanh niên biết mình có lỗi nên đã lẫn trốn đâu mất. Vị đạo sĩ trung niên trật y vai phải cung kính đến xá lạy Tôn giả Xá-Lợi-Phất , rồi nói - Cái lạy này coi như là lời xin lỗi, thay mặt đạo sĩ vô lễ, bất kính vừa rồi, xin Tôn giả hỷ xả cho! Tôn giả Xá-Lợi-Phất cũng xá lại đáp lễ - Nếu tôi có lời nào đụng chạm đến các quan điểm, đụng chạm đến một vài cá nhân trong quý giáo thì cũng xin chư hiền xá tội cho! Cả hội chúng đồng thanh nói - Không dám đâu! Không dám đâu! Vị đạo sĩ trở lại chỗ cũ trên tọa cụ của mình, cất giọng chậm rãi, trầm ấm - ã có đại biểu năm giáo phái rồi, còn tôi là đại biểu cho Vệ-àn-à. Thưa Tôn giả! Quê tôi ở bờ biển miền nam, năm xưa tham dự ại hội Bà la môn ở Vương-Xá thành và đã có cơ may gặp gỡ được Tôn giả. Tôi rất hâm mộ Tôn giả và Tôn giả Kolita. Khi nghe tin nhị vị Tôn giả đã bước ra ngoài truyền thống và theo đạo sĩ Sanjaya, tôi tìm đến Vương-Xá thì nhị vị đã cất bước ta-bà tầm sư học đạo. Mới đây lại được nghe tin nhị vị đã là ại ệ Tử của ức Cồ-àm, tôi rất vui mừng cho chư Tôn giả đã tao ngộ được Chánh Pháp. Thú thật rằng, đã hơn hai mươi năm trong truyền thống, tôi vẫn chưa tìm ra được bình an. Mọi tri thức, kinh điểm tôi cũng đã hoài nghi từ lâu lắm. Tôi bất lực trước Màya ảo hóa và Avidya vô minh. Tôi nghi ngờ Atman tiểu ngã và Brahman phạm thể. Thần Vichnou và thần Ishavara cũng dường như vô năng trước sự thống khổ của chúng sanh. Tư tưởng, triết học thật rỗng không và phù phiếm! Thưa Tôn giả! Tranh luận với nhau mà làm gì chứ! Tôi đã khuyên họ mà họ có nghe tôi đâu. Một đạo sĩ thanh niên đã tự bẻ sáu nhành liễu đem cắm ở đây, nó muốn tạo ra thế tranh luận thắng bại giữa những giáo phái tu học. Tranh luận để học hỏi là tốt, nhưng tranh luận làm sao được đối với Tôn giả, người đã nắm được căn bản của mọi tông giáo trên đời này, rõ ràng như những đường chỉ trong lòng bàn tay của mình! Tôi chỉ muốn gặp Tôn giả để học hỏi thôi. Trước đây tại một ngôi làng quê, tôi cũng đã làm trưởng giáo Bà la môn. Thuở đó, so với Tôn giả tôi chỉ là con đom đóm mà Tôn giả là ánh mặt trời. Vĩnh viễn là như thế! Tôi khao khát học hỏi để giải thoát đau khổ mà thôi! Hẹn được tái ngộ Tôn giả. Lời chí tình của vị đạo sĩ Bà la môn làm cho Tôn giả Xá-Lợi-Phất và toàn thể hội chúng đều cảm động. Phái Du-Già, phái Số Luận cũng phát biểu - Chúng tôi chỉ muốn trao đổi để học hỏi. Thì giờ đã muộn, hẹn gặp Tôn giả một ngày gần đây để xin thọ giáo một cách tường tận hơn. Thế rồi, không ai bảo ai, tất cả đồng đến chào Tôn giả Xá-Lợi-Phất. Họ trở lại trú xứ của mình. Ngơ ngẩn, xuất thần nhìn mọi người giải tán trong ôn hòa, lặng lẽ; trưởng giả Tu-ạt quỳ lạy ôm chân Tôn giả Xá-Lợi-Phất, cảm thán thốt lên - Như trên trời chỉ có một ngôi sao Bắc ẩu, như rừng xanh kia chỉ có một chúa Sư Vương! Hôm nay, giữa chúng ngoại đạo trí thức, tài giỏi như vậy mà Trưởng lão tranh luận nhẹ nhành như cầm cành hoa bên tay mặt mà bỏ qua tay trái; như vị nhạc công của cõi trời vuốt sợi dây đàn để điều chỉnh âm thanh cao thấp như ý muốn; như nắm viên ngọc mani mà dọi vào hóc tối này hay hóc tối kia! Con hoan hỷ, sung sướng và mãn nguyện dạt dào như sóng nước vô tận giữa biển đông! Trưởng lão có biết thế không? Tôn giả Xá-Lợi-Phất nói vui - Ông Tu-ạt lúc này cũng sính văn chương chữ nghĩa nhỉ? - Dạ, không dám! - Tâm thành của ông nó tự làm nên bút, ý thành của ông nó tự làm nên văn mà thôi, có phải ông muốn nói thế chăng? Trưởng giả Tu-ạt lại thêm sợ hãi, kính phục - Quả có vậy, quả con có ý nghĩ như vậy! - Thôi được rồi! Việc xây dựng tịnh xá, thế là những chướng ngại, những khó khăn lớn đã đi qua rồi. ức Thế Tôn có dặn bảo là công trình phải hoàn tất trước mùa mưa, ông nhớ chứ? - Thưa nhớ chứ! Không những thế, con còn quyết tâm hoàn thành "vượt mức kế hoạch." Chưa bao giờ trưởng giả Tu-ạt cảm thấy hạnh phúc như hôm nay. Hỷ lạc ở trong ông ăm ắp cả tuần lễ không chịu tan đi. Ông muốn chia sẻ niềm vui ấy với tất cả mọi người. Thế là thợ thầy được tăng lương, kẻ làm công, người ở được biếu tặng tiền bạc, vải vóc, thực phẩm, thuốc men. Ngoài ra ông còn cho thiết lập hai trại chẩn bần, hai trại cúng dường cho thập phương đạo sĩ không phân biệt giáo phái nào, hai trại phát thuốc chữa bệnh cho người nghèo rải rác trong thành phố và vùng phụ cận. Ông thuê mướn một trăm người giàu lòng thiện tâm, trả lương rộng rãi để cho họ sốt sắng chu toàn các công vụ này... Tiếng lành đồn xa. Ti?ng lành về ông đại triệu phú từ bi, bác ái đã chinh phục trái tim mọi người. Các giáo phái sau cuộc tranh luận vừa rồi, có người nặng mặc cảm, nhưng thấy ông hào sảng cúng dường không phân biệt, nên phải đem tâm kỉnh trọng. Tất cả mọi người nghèo trong xứ thảy đều hàm ơn, họ gọi ông là trưởng giả Cấp Cô ộc trợ cấp cho người nghèo khó, cô độc là vì vậy. Còn Ngài Xá-Lợi-Phất lại trở nên sáng rỡ như một ngôi sao duy nhất trên vòm trời Xá-Vệ. Và công trình kiến thiết "Kỳ thọ Cấp Cô ộc viên" có quy mô vĩ đại, huy hoàng theo đó mà hoàn thành viên mãn. * * * Hôm kia, đứng trên ngọn đồi cao nhìn xuống, trưởng giả Tu-ạt xoa bàn hài lòng ngắm nhìn công trình kiến trúc, tự nghĩ "- Trưởng lão Xá-Lợi-Phất quả là có đầu óc vĩ đại. Ngài không vẽ họa đồ, không nhìn sao, chọn hướng; Ngài không bắt tay vào việc xác định địa cuộc, tìm long mạch; không hề đưa ra một lời có tính quyết định - mà bao giờ Ngài cũng chỉ nói "cho bần đạo góp một ý kiến nhỏ..., cho bần đạo được lòi cái dốt của mình ra...", Thế nhưng, điểm gì Ngài đã nói là như thò cái kim châm vào trúng đại huyệt, như đưa ngón trỏ chỉ trúng ấn đường! Các vị kiến trúc sư, thiên văn, địa lý kia khâm phục sát đất, chẳng dám ho he nửa lời. Ôi! Ngài quả là bậc thầy của những bậc thầy; cao cả, trác viết mà khiêm nhu xiết bao! Ồ! coi nào! để coi nào! là những ý kiến nhỏ, là những cái dốt lòi ra... thế rồi công trình giờ đây ra sao? Kìa! Kìa! ại Giảng ường chính là cái đầu của Con Rồng Thiêng. Hương phòng của ức Thế Tôn rõ là một con mắt hiện, một con mắt ẩn! Những liêu thất, am cốc của Chư Tăng là những chiếc vảy rồng kế dài, nhấp nhô, uốn lượn nhịp nhàng suốt ba ngọn đồi. Những chân rồng, những móng rồng là những bệnh xá, nhà kho, nhà ăn, nhà nghỉ...; các công trình phụ như bể nước, hồ tắm, nhà vệ sinh nằm kín đáo trong những lùm cây xanh... Ồ! coi nào! để coi nào! Rõ ràng là con Rồng Thiêng này đang uống nước - mà hai cái vòi của nó là hai chiếc cầu cong cong, thon nhỏ, thanh mãnh, dịu dàng, sống động. Ôi! Chiếc hồ mênh mông nằm ngang trước ại Giảng ường, nước đầy ăm ắp và trong như mắt mèo, mỗi ngày phản chiếu năm sắc khác nhau! Khi đào chiếc hồ này các thầy Bà la môn tự quyết định vị trí và khoanh các vùng giới hạn. Họ bảo sẽ có mạch nước vô tận. Thế nhưng, khi họ đào đến một đòn gánh, hai đòn gánh - mạch nước cũng chỉ ri rỉ như rồng nhiểu nước miếng! Tôn giả Xá-Lợi-Phất mỉm cười... cho bần đạo góp một ý kiến nhỏ..., cho bần đạo được lòi cái dốt của mình ra... Các thầy thử cho đào chệch về hướng sao Bắc ẩu ba đòn gánh thêm một hắc tay nữa xem sao! Thế rồi sao nào! Không phải hai đòn gánh, không phải ba đòn gánh, mà đúng là ba đòn gánh và một hắc tay, thì nước đâu đó từ trong lòng đất tuôn ra ào ạt, mạch chảy trong các họng nham thạch, luồng giữa mấy khối đá tảng, trong như ngọc và tỏa mùi hương chiên đàn! Kỳ lạ không chứ! Rõ Tôn giả là tổ sư của các tổ sư địa lý! ?! Còn hương phòng của ức Thế Tôn thì sao nào? Các thầy Bà la môn cho quay mặt về hướng mặt trời. Tôn giả Xá-Lợi-Phất khen ngợi họ, vậy là giỏi, vậy là tài; tuy nhiên Ngài bảo, cho bần đạo góp một ý kiến nhỏ..., cho bần đạo được lòi cái dốt của mình ra..., các thầy hãy cho chệch về bên phải ngôi Sao mai một lóng tay! một lóng tay thôi nhé! Vậy là chuyện gì xảy ra? Hương phòng của ức Thế Tôn bên trong mát lạnh hơn bên ngoài. Và không biết có một luồng gió nhẹ ở đâu thoang thoảng đi qua các khung cửa làm cho không khí của nội thất không bao giờ bị tù đọng. Các thầy Bà la môn phục quá. Từ đó về sau, họ không còn dám khoác lác, khoe khoang nữa! Thế rồi, một lần trưởng giả Tu-ạt hỏi Ngài - Thưa Trưởng lão! Giáo Pháp của ức Thế Tôn cũng có thiên văn, địa lý, phong thủy sao? - Không có đâu, ông Tu-ạt. Ta học được các môn ấy từ thuở thiếu thời. - Nó như thế nào theo lời dạy của ức Tôn Sư? - Nó chính là các định luật về trăng sao, phương hướng; định luật về thời tiết, khí hậu; định luật về vật lý... cùng các định luật khác nữa về sự tương quan, qua lại giữa nhau. - Nó có biến cải được số phận, thọ yểu, sang hèn của chúng hữu tình không? - Không biến cải được đâu ông Tu-ạt. Giáo Pháp của ức Tôn Sư là một nhận thức như thực, đúng đắn về toàn bộ các định luật ấy, không chối bỏ bất cứ một định luật nào. Tuy nhiên, quyết định tối hậu cho số phận con người chính là định luật tâm, ngắn gọn hơn là định luật nhân quả nghiệp báo! - Còn các định luật kia thì sao? Nó có hỗ trợ, tương tác, tương thuận, tương nghịch gì với định luật tâm không, thưa Tôn giả? - À! Ông hỏi thế hay lắm đấy! Hãy nghe đây ông Tu-ạt! ức Thế Tôn ngồi dưới cội cây Bồ-ề mà thành đạo, Ngài quay mặt về hướng ông, là hướng của thanh khí, dương khí. Thanh khí, dương khí là khí nhẹ, khí trong sáng... nó sẽ hỗ trợ cho các trạng thái tâm nhẹ nhàng, trong sáng được thăng hoa toàn mãn. ức Thế Tôn nằm nghỉ đầu quay hướng Bắc, mặt nhìn hướng Tây là để quân bình, hài hòa các khí, các lực giữa tiểu vũ trụ là con người và đại vũ trụ là quả địa cầu! - Thưa, vậy là con đã hiểu rõ rồi! - Bàng môn tả đạo họ sử dụng các thuật kia để nuôi mạng, để tà mạng, để lòe bịp đời, để quyết định số phận, thọ yểu, sang hèn của con người... cho nên họ đi vào mê lộ của tà ma! Họ chấp vào đấy, không chịu tu học, không chịu làm thiện, không chịu biến cải, thay đổi đời mình bằng những thiện nghiệp. Tâm là nhân, các định luật kia là duyên. Họ đã chấp duyên làm nhân mà họ không biết. Nguy hiểm là vậy! - Thưa, chắc chắn là con đã nắm được rồi! - ức Tôn Sư với năng lực tâm bao trùm vũ trụ. Với năng lực tâm của Ngài thì mặt trời mặt trăng sẽ dừng lại và quả địa cầu này cũng có thể đứng yên nếu như Ngài muốn! Nói như thế để hiểu rằng, Ngài không cần một định luật nào bên ngoài để hỗ trợ cả. Tuy nhiên, chúng ta là đệ tử, chúng ta phải có bổn phận bảo vệ sức khỏe cho ức Tôn Sư. Sức khỏe của ức Tôn Sư là sức khỏe lâu dài cho Giáo Pháp. Sức khỏe lâu dài của Giáo Pháp là hạnh phúc lâu dài cho Chư Thiền và nhân loại! - Thưa vâng, con đã rõ! ến đây Ngài Xá-Lợi-Phất nói nhỏ lại - Vì ức Tôn Sư luôn luôn sống giản dị, bình thường như một chúng sanh giản dị, bình thường; chỉ khi nào cần thiết nhất cho sự giáo hóa Ngài mới sử dụng thần thông hoặc các năng lực siêu phàm khác. - Thưa vâng, con hiểu. Con cảm thấy thỏa mãn và vô cùng an vui trước những lời giảng giải cặn kẽ của Trưởng lão." Nghĩ đến ngang đây, bất giác ông Tu-ạt mỉm cười, đảo mắt nhìn công trình một lần nữa. Con Rồng bây giờ như đang chuẩn bị xòe móng, giương vây để bay lên giữa trời xanh bao la vô tận... Và hy vọng rằng, Giáo Pháp của ức Tôn Sư cũng như con Rồng Thiêng kia vậy. -ooOoo- ầu trang 01 02 03 04 05 06 07 08 09 10 11 Mục lục
Ca khúc Sao băng khóc do ca sĩ Cloudy thể hiện, thuộc thể loại Tui Hát. Các bạn có thể nghe, download tải nhạc bài hát sao bang khoc mp3, playlist/album, MV/Video sao bang khoc miễn phí tại
BuddhaSasana Home Page This document is written in Vietnamese, with Unicode Times font [03] Ánh nắng siêu thoát Vua Bình Sa Vương Bimbisàra - Tần-Ba-Sa trị vì quốc độ Ma-Kiệt-à Magadha - một đế quốc hùng mạnh, đóng đô tại kinh thành Vương-Xá Ràjagaha - là vị thí chủ đầu tiên của ức Phật trong hàng vua chúa. Khi thái tử Sĩ-ạt-Ta thoát ly đời sống vương giả, trên đường lang thang tìm đạo, có ghé qua Vương-Xá thành. Và một hôm, nhà vua trông thấy Ngài, một đạo sĩ khiêm tốn đang đi khất thực trên đường phố. Vua lấy làm kính cảm khi thấy tướng mạo uy nghi, tư cách trang nghiêm, thanh tịnh của Ngài nên sai người đi dò thăm. Khi được biết rằng, thường bữa, sau khi độ ngọ thì vị đạo sĩ cao quý ấy ngụ tại Pandavapabbata, vua cùng đám tùy tùng đến viếng Ngài và trao đổi chuyện. - Thưa ạo Sĩ! Vua Bình Sa chấp tay cung kỉnh hỏi - Trẫm thấy ạo Sĩ có cốt cách và dung mạo khác thường, chắc hẳn không phải là hạng dân dã mà xuất thân phải thuộc dòng tộc cao quý nhất, hùng mạnh nhất. Trẫm tò mò muốn biết, có khi không phải, mong ạo Sĩ hỷ xả bỏ qua cho. Rằng, lý do làm sao, ạo Sĩ tuổi đang còn thanh xuân, tóc đang còn đen nhánh, lại chấp nhận đời sống nghèo hèn của hạnh khước từ? Hiện tại đời sống ấy ra sao? Và tương lai, cứu cánh ấy như thế nào? ạo Sĩ Cồ-àm trả lời - Chẳng có gì, tâu ại vương! Phía trước đây, không xa lắm, dưới chân Hy mã lạp sơn, trong châu thành Kosala của những gia tộc cổ kính, một bộ tộc cường thịnh và phú túc tôi xuất thân ở đấy, triều đại Thái Dương, dòng dõi Thích Ca Sàkya. Vì nhận thức được mối hiểm nguy, tệ hại của thú vui vật chất nên tôi đã rũ bỏ vương bào, khoác mảnh y hoại sắc của người khất sĩ. Hiện tại tôi không còn muốn bám víu vào ngũ dục, tôi xuất ly chúng và cần cầu cái gì cao thượng hơn. Giờ đây tôi cảm thấy được thoải mái trong đời sống xuất gia. Tôi được an lạc, cảm ơn ại Vương đã quan tâm! Vua Bình Sa nghe vậy rất hoan hỷ, kính thỉnh ạo Sĩ Cồ-àm, sau khi chứng ngộ đạo quả, hãy trở về viếng thăm vương quốc Ma-Kiệt-à. ạo Sĩ Cồ-àm cũng hứa khả với đức vua như vậy. Mấy năm sau, đắc đạo quả Chánh ẳng Chánh Giác, ức Phật từ giã cội Bồ ề bên sông Ni Liên, lên đường chuyển bánh xe Pháp, gióng lên tiếng trống Bất Tử. ầu tiên, Ngài đến vườn Lộc Giả, độ cho năm anh em Kiều Trần Như - là những kẻ cùng tu khổ hạnh năm nào. Tại Ba-la-nại, ức Phật độ cho Yasa và bằng hữu của ông, cả thảy năm lăm người. Cùng với nhóm Kiều Trần Như là sáu mươi vị A-La-Hán, từ đó, Ngài thành lập Giáo Hội Tăng Già đầu tiên, gồm những người thuộc giai cấp lãnh đạo, có học thức, cao sang nhất trong xã hội thời bấy giờ. ức Phật quyết định gởi sáu mươi vị A-La-Hán di khắp các nơi truyền bá Giáo Pháp mới mẻ này. Ngài nói với các đệ tử - Nầy các thầy tỳ-khưu! Như Lai đã thoát ra khỏi mọi sự trói buộc, dầu ở cảnh người hay ở cảnh trời. Các con cũng vậy, hỡi các thầy tỳ-khưu! Các con cũng đã thoát khỏi mọi sự trói buộc, dầu ở cảnh người hay ở cảnh trời. Hãy ra đi! Nầy các thầy tỳ-khưu! em lại sự tốt đẹp cho nhiều người, đem lại sự hạnh phúc cho nhiều người. Vì lòng từ bi, hãy đem lại lợi ích, an lạc cho chư thiên và loài người. Mỗi người hãy đi mỗi ngã. Hãy hoằng dương Giáo Pháp toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn giữa, toàn hảo ở đoạn cuối; toàn hảo trong cả hai tinh thần và ngôn ngữ. Hãy công bố đời sống thiêng liêng và cao thượng, vừa toàn thiện, vừa trong sạch. Có chúng sanh vướng ít bụi cát ở trong mắt sẽ am hiểu Giáo Pháp, hiện quán Giáo Pháp và thân chứng Giáo Pháp. Có chúng sanh dẫu ít bụi cát ở trong mắt, nhưng nếu không nghe được Giáo Pháp, liễu tri Giáo Pháp, chúng sẽ sa đọa. Các thầy hãy ra đi vì lòng bi mẫn, vì lòng thương tưởng đối với chúng sanh đang khổ nạn; đang bị bít bùng, đoanh vây bởi phiền não chướng, sở tri chướng. Chính Như Lai cũng phải ra đi. Như Lai sẽ đi về hướng Uruvela ở Sanànigàma. Như Lai sẽ đi qua vùng Chư-Thiên-ọa-Xứ Isipatana, đến Vương-Xá thành hoằng dương Giáo Pháp, cứu độ cho nhiều người hữu duyên. Hãy phất lên ngọn cờ của bậc thiện trí. Hãy gióng lên tiếng trống của Chân Phúc và Bất Tử. Hãy truyền dạy Giáo Pháp giản dị, thiết thực và cao siêu chưa từng được nghe. Hãy mang lại niềm hy vọng an bình cho nhân thế. ược vậy là các thầy đã làm xong việc phải làm trên đời này! Sau khi ức Phật tuyên bố như vậy, sáu mươi vị thánh A-La-Hán chia nhau đi các phương. ức Phật ghé vùng Chư-Thiên-ọa-Xứ, độ cho ba mươi người xuất gia theo phạm hạnh. Ngài đến vùng Uruvela độ cho anh em ông Ca-Diếp cùng một ngàn đệ tử của họ. Trong một bài thuyết pháp về lửa ở Gàya Ngài đã độ cho không biết bao nhiêu người đắc quả, trong đó ba anh em ông Ca-Diếp đắc quả A-La-Hán. Khi Ngài đến Vương-Xá thành, ở trong rừng kè thì chung quanh đã có hơn một ngàn thầy tỳ-khưu. ức Phật trở lại đây, kinh đô nước Ma-Kiệt-à là thể theo lời thỉnh cầu trước đây của Bình Sa Vương. Tin lành đến tai vua, vì danh tiếng của vị giáo chủ vô song này đã bay khắp vương quốc, chấn động cả kinh đô tín ngưỡng, rung động những con tim tôn giáo. ức vua bèn hối hả cùng tùy tùng và thân quyến đến đảnh lễ và thăm viếng ạo Sĩ năm xưa. Một vùng hào quang xán lạn và yên tĩnh từ kim thân ức Phật tỏa ra, vua Bình Sa cúi đầu rồi thành kính chiêm ngưỡng, và biết chắc, đây là một bậc ại Giác Ngộ đích thực đã ra đời. Sau thời pháp, ánh sáng chân lý đến với mọi người. Bình Sa Vương đắc quả Tu-à-Hườn, xin quy y Tam Bảo; sau đó, ức vua xin thỉnh ức Phật và Tăng Chúng về cung điện thọ trai ngày hôm sau. Trong dịp này, Bình Sa Vương xin làm bổn phận của một đệ tử cư sĩ, ngõ ý cúng dường khu Trúc Lâm của mình - là nơi không xa cũng không gần thành phố - để cho Chư Tăng dễ dàng hành đạo; và để cho những ai, có thể đến thính pháp rất tiện lợi. ây là khu rừng tre mát mẻ, ban ngày không ồn ào, ban đêm yên tĩnh, kín đáo mà khoảng khoát, trong lành. Trúc Lâm còn được gọi là nơi trú ẩn của loài sóc, tại đây, ức Phật đợi chờ cho nhân duyên chín muồi để độ cho hai nhân cách siêu việt, hai vị đại đệ tử, hai ngôi sao của Giáo Hội. Ấy là Upatissa Xá-Lợi-Phất và Kolita Mục-Kiền-Liên vậy. * * * Khi ức Thê Tôn đang ở Trúc Lâm thì ại ức Assaji, một trong năm vị đệ tử A-La-Hán đầu tiên thuộc nhóm Kiều Trần Như, theo lời dạy của ức Phật, lên đường chuyển bánh xe Pháp, cùng đi về một phương với ức Phật, theo hướng Vương-Xá thành. Nhân duyên của Upatissa đã đến. Hôm đó, chàng cũng ở tại Vương-Xá thành, đang trên đường đi thăm đạo sĩ Sanjaya, thì chợt nhiên nhìn thấy một tu sĩ y bát trang nghiêm, dung nghi từ tốn; mắt nhìn xuống, tĩnh lặng, khiêm hòa; gương mặt trầm tĩnh, buông xả và tự tại. Tất cả đấy biểu lộ một sự vắng lặng, an tịnh, ổn định sâu xa ở bên trong; nó còn nói lên một sự dừng lặng, ngưng nghỉ, tĩnh tại - cái không còn xôn xao, lăng xăng tìm kiếm! Vị ại ức khả kính nọ khoan thai, chừng mực đi từ nhà này sang nhà khác, nhận lãnh ít vật thực khiêm tốn từ tấm lòng của mọi người. Cốt cách siêu phàm và bình dị của bậc chân tu khiến Upatissa tò mò để ý. Chưa bao giờ chàng được gặp một Bà la môn, Sa môn, một đạo sĩ, một tu sĩ, một nhân cách, một con người bình thường và vĩ đại như vậy. Chắc chắn Ngài là một trong những vị đã đắc quả A-La-Hán lý tưởng phổ thông thời bấy giờ hay ít ra là một trong những vị đang đi trên con đường dẫn đến đạo quả A-La-Hán. Upatissa tự nhủ "- Ta hãy đến gần và hỏi Ngài Vì sao Ngài thoát ly thế tục? Thầy của Ngài là ai? Ngài truyền bá giáo lý gì?" Tuy nhiên, thấy ại ức Assaji đang yên lặng đi trì bình, Upatissa không dám làm rộn Ngài. Khi ại ức Assaji đi bát xong, hướng mắt đến một khu rừng xa cất bước, Upatissa cung kính đi theo sau, tự nghĩ "- Chắc chắn Ngài đang tìm đến một nơi an tịnh phải lẽ để độ thực. Ta sẽ đi theo Ngài, tìm cách hầu hạ Ngài như một người đệ tử. Rồi ta sẽ hỏi đạo từ nơi Ngài." ại ức Assaji biết có người đi theo sau, nghĩ rằng "- Mấy ông du sĩ ngoại đạo này thường cống cao, ngã mạn. Chúng không biết rằng, khi ức Thế Tôn xuất hiện ở trên đời thì tất cả các giáo phái chủ, giáo phái sư của chúng chỉ còn là những ngọn đèn le lói, những con đom đóm lập lòe! Thế mà chúng cứ muốn đem so ánh sáng của mình với ánh sáng của mặt trời, mặt trăng! Tuy thế, ta cứ để cho chúng muốn làm gì thì làm với cái lập lòe, le lói ấy! Không ai có thể phá rối được sự an tĩnh của những đệ tử ức Tôn Sư - dẫu là uy lực của Chư Thiên, Phạm Thiên, ma quân hay loài người!" ến một lùm cây cao, có bóng mát, ại ức Assaji đưa mắt nhìn bao quát một vòng rồi dừng chân lại. Upatissa hiểu ý Ngài đã tìm ra được chỗ nghỉ, nên nhanh nhẹn lấy chiếc tọa cụ của mình mang theo, trải ra trên đám cỏ bằng phẳng, sạch sẽ rồi thưa rằng - Bạch Ngài, xin Ngài hãy an tọa trên tấm tọa cụ này. Xin Ngài hoan hỷ tiếp thọ tấm lòng thành kính của con. ại ức Assaji gật đầu đáp trả, mỉm cười bình lặng, ngồi xuống rồi mang bình bát ra, để bên chân rồi thong thả độ thực. Ngài dùng chậm rãi, từ tốn, an trú chánh niệm trước mặt, rốt ráo hiện quán, rốt ráo tỉnh thức. Upatissa đứng một bên, vòng tay cung kính, nét mặt trang nghiêm, bình lặng. Một ý nghĩ khởi sanh trong tâm Ngài Assaji "- Người này, vị du sĩ trẻ tuổi này; tuấn mỹ, trang nghiêm và rất mực cung kỉnh này - biểu lộ một sự chân thực hiếm có! Ta chưa từng thấy ai, biết ai trong hàng ngoại đạo lại toát ra cái vẻ tri thức đích thực, đạo hạnh và khiêm tốn hy hữu như vậy. Phải chăng, đây sẽ là một đóa kỳ hoa khi được ánh nắng siêu thoát của ức Tôn Sư dọi đến?" ại ức Assaji vừa rời tay khỏi bình bát sau khi thọ thực xong, Upatissa đã nhanh nhẹn và cẩn trọng dâng đến Ngài nước rửa, nước uống, tăm xỉa răng mà những du sĩ hành cước luôn luôn mang sẵn bên mình. ại ức Assaji im lặng thọ nhận, tự nghĩ "- Không phải không duyên cớ mà y đến bên ta, cung kính và hầu hạ ta với tư cách một người đệ tử thuần hậu, ngoan ngoãn. Ta hãy tìm một chỗ phải lẽ để nghỉ ngơi, sau đó, thì giờ ta sẽ dành cho thiền định, an trú tâm giải thoát rồi ta sẽ xem thái độ của y ra sao." ại ức Assaji đứng đậy. Upatissa nhanh chóng thu dọn, cất đặt mọi thứ rồi thưa rằng - Bạch Ngài! Chẳng hay Ngài có ý định tìm một gốc cây khác, một khu rừng khác để tỉnh chỉ vào buổi trưa? ệ tử xin được đi theo hầu hạ, có việc gì xin Ngài cứ tùy nghi sai bảo. ại ức Assaji đáp - Bần đạo đã hoan hỷ thọ nhận tất cả mỹ ý của ngài rồi, vị du sĩ trẻ tuổi ạ! Nay đến thời tỉnh chỉ của bần đạo, khỏi phiền đến ngài nữa. Không rõ bần đạo có thể giúp ích được gì cho ngài đây? Upatissa thỉnh ại ức Assaji ngồi xuống trở lại trên tấm tọa cụ của mình, cung kỉnh đảnh lễ sát đất, ôm chân bụi của Ngài rồi bạch - ệ tử lang thang tìm ạo đã nhiều. ệ tử đã lê gót ta bà khổ hạnh khắp mọi quốc độ, nghe nơi nào có vị đạo sư lỗi lạc đệ tử đều tìm đến chiêm ngưỡng, cúng dường, học hỏi giáo pháp. ệ tử ở trong truyền thống Bà la môn đã học hết kinh điển Bà la môn, tu tập hết mọi con đường dẫn đến Phạm Thể, nhưng cuối cùng vẫn bế tắc và khổ đau. Bao năm nay đệ tử khẳng khái phất tay từ bỏ chúng, bước ra ngoài chúng; đã học hỏi với rất nhiều giáo phái, rất nhiều chân sư hiện đại nhưng Chân Phúc và Bất Tử vẫn không tìm thấy! Bạch Ngài, vị Sa môn khả kính! ệ tử chưa từng thấy ai có được ngũ quan trong sáng, bình thản và an tịnh như Ngài. Phong thái của Ngài mới tươi mát, tịch tịnh và siêu thoát làm sao! Bạch Ngài! Con chiêm ngưỡng Ngài như thế rồi tự nghĩ "ây đúng là nhân cách của bậc vĩ nhân A-La-Hán hay ít ra là cũng đang trên đường đi đến đạo quả A-La-Hán". Vậy xin Ngài hãy dạy cho con biết, vì mục đích nào mà Ngài thoát ly thế tục? Có ai làm Tôn Sư của Ngài trên đời này không? Ngài thọ giáo với ai? Và Giáo Pháp Ngài thọ giáo ấy nó như thế nào? Vị A-La-Hán chăm chú lắng nghe, tự nghĩ "- úng là y đã nói tận đáy lòng. úng là một du sĩ có học thức, có lễ độ, có hạnh kiểm. úng là y đã từng nỗ lực cần cầu sự an ổn, vượt thoát mọi khổ ách ở trên đời." Ngài bèn khiêm tốn trả lời - thái độ khiêm tốn, chừng mực là đặc điểm của bậc Thánh nhân. - Này vị du sĩ trẻ tuổi chân thật! Bần đạo chỉ là một tu sĩ sơ cơ. Bần đạo chỉ mới tập tành bước chân vào Giáo Pháp này. Bần đạo ít học, ít ngôn ngữ, ít khả năng nên thật không đủ sức giảng giải Giáo Pháp một cách rành rẽ được. Upatissa thành kính nói - Kính bạch Ngài! Con là Upatissa, xin Ngài cứ chỉ giáo cho con ít nhiều. Dẫu chỉ một ít nhưng con sẽ cố gắng tự tìm hiểu Giáo Pháp bằng trăm ngàn cách. Và chàng lại đảnh lễ một lần nữa - Con là người khao khát Giáo Pháp như hạn hán trông mưa, nhất là thứ Giáo Pháp mà Ngài đã uống vào lòng rồi tỏa sáng, chói ngời nơi tứ oai nghi, nơi cung cách và nơi tác phong của Ngài. Xin Ngài hãy ban cho con một ít về Giáo Pháp ấy. Ngài chỉ cần một vài lời tóm tắt. Dẫu một vài lời nhưng là cái căn bản, cốt lõi và thiết yếu nhất. Biết lòng khẩn, thiết tha của chàng thanh niên, ại ức Assaji nói - Vậy này hỡi người du sĩ đáng mến! Bần đạo sẽ tóm tắt gọn ghẽ triết lý cao siêu của ấng Tôn Sư. Hãy lắng tai để nghe, hãy lấy trí để thấy "Các Pháp phát sanh do bởi một nhân, Nhân ấy, ức Như Lai đã chỉ rõ. Và Ngài cũng dạy phương pháp để, diệt tắt nhân ấy. Chính đó là giáo huấn của vị ại Sa môn!" Bốn câu kệ tóm tắt toàn bộ Giáo Pháp thật giản dị mà cũng vô cùng cao siêu. Trí tuệ của Upatissa lúc bấy giờ có lẽ đã thuần thục để thấu triệt chân lý ấy. Như một ánh nắng, một tia sáng... Chỉ cần một gợi ý, một mở phơi... là Upatissa thấy hé lộ một con đường đi đến Chân Phúc và Bất tử! Còn kỳ diệu hơn thế nữa, là không đợi đến lúc ại ức Assaji đọc xong bốn câu, mà chỉ mới hai câu đầu tiên thôi - Upatissa đã chứng quả Tu-à-Huờn Sotapati, đã đi vào dòng Thánh. Upatissa đứng lặng hồi lâu, toàn thân chàng chấn động mạnh một trạng thái siêu thoát đã đến với tâm trí chàng! Xúc động, cảm kích, tri ân bàng hoàng lẫn lộn - Upatissa quỳ xuống ôm chân ại ức Assaji, nghĩ rằng " Ý nghĩa của sự giải thoát, Chân Phúc và Bất Tử ta đã tìm thấy ở đây rồi." Bèn nói - Bạch Ngài! ệ tử đã tìm thấy rồi. Thật là siêu thoát và vĩ đại là Giáo Pháp vô thượng này. Xin Ngài đừng giải rộng thêm nữa. ối với đệ tử, vậy là quá đủ rồi, quá đủ cho mục đích của một thiện gia nam tử xuất ly cần cầu an ổn mọi ách phược trên trần thế. ại ức Assaji biết vị du sĩ trẻ tuổi đã đắc pháp nhãn, đã thấy ánh-sáng-của-con-đường, bèn tiếp - Hãy đi đến bên chân ức Tôn Sư, Bậc Vô Thượng Chánh ẳng Chánh Giác - Ngài còn có cả một kho tàng Pháp Bảo, chỉ để dành cho những ai có trí. - Bạch Ngài! Hiện ấng Vô Thượng Giác giờ ở đâu? - Này kẻ tầm ạo! Cũng gần đây thôi. ức Tôn Sư hiện đang ở rừng Tre, chỗ trú ẩn của loài sóc. - Bạch Ngài! Rồi đệ tử sẽ đến đó. Hiện giờ, đệ tử có một người bạn thân, cũng cần cầu Giáo Pháp như đệ tử vậy, trước khi chia tay, có lời hẹn ước như sau "Nếu ai tìm được ạo Bất Tử trước tiên, phải chỉ lại cho người kia." Nay đệ tử phải thông báo cho bạn niềm vui bất tử này. ất hôm nữa thôi, chúng đệ tử sẽ đến quỳ bên chân ức Giáo Chủ vô song. Upatissa cung kính quỳ mọp đảnh lễ Ngài Assaji, từ giã, sau đó, đi tìm Kolita. Thấy bạn với dáng đi, với nét mặt tỏa sáng rạng rỡ kỳ lạ chưa từng được thấy, Kolita ngạc nhiên hỏi - Này hiền huynh! Phải chăng hôm nay hiền huynh đã tìm ra ạo Bất Tử? -Phải, hiền đệ ạ! Thật là hạnh phúc thay cho chúng ta, cho tất cả chúng sanh, vì ạo Bất Tử đã thật sự có mặt trên đời này. Một ức Thế Tôn, một nhân cách vô song, một bậc A-La-Hán vĩ đại - đã tuyên bố một Giáo Pháp vô song và vĩ đại chưa từng được nghe! Huynh đã nếm được hương vị đầu tiên của Giáo Pháp ấy qua đệ tử của ức Vô Thượng ấy. Bây giờ, hiền đệ hãy lắng tai để nghe, lấy trí để thấy... đây là bốn câu kệ tóm tắt Giáo Pháp bất diệt ấy... Nói thế xong, Upatissa đọc lên. Khi bốn câu kệ ngôn vừa chấm dứt, cũng như Upatissa, Kolita chấn động cả châu thân, ánh sáng Bất Tử lóe hiện Kolita nhập vào giòng Thánh, đắc quả Tu-à-Huờn. Cũng im lặng giây lâu, cũng bàng hoàng xúc động như Upatissa, Kolita chấp tay cung kính - Quả thật là Giáo Pháp tối thượng, vĩ đại đã xuất hiện ở trên đời do một ấng ại Giác - vì lợi ích cho chúng sanh. Con xin cung kính đảnh lễ Giáo Pháp ấy. Con xin cung kính tri ân Giáo Pháp, đã cho con thấy bến, thấy bờ, thấy được ánh sáng vinh quang và bất tử. Kolita run run nắm tay bạn - Này hiền huynh! Vậy ức Thế Tôn giờ ở đâu? - Thầy của huynh cho biết rằng, ấng ại Giác hiện ở Trúc Lâm, tức là rừng Tre của vua Bình Sa. - Chúng ta hãy mau mau đến chiêm bái Ngài. Upatissa suy nghĩ một lát - Vâng, rồi chúng ta sẽ đến chiêm ngưỡng Ngài, sẽ quy y với ấng ại Giác ấy. Nhưng hiền đệ nghĩ như thế nào, có nên thông báo sự kiện hy hữu này cho thầy cũ của chúng ta, đạo sĩ Sanjaya hay biết chăng? Có nên thức tỉnh thầy của chúng ta từ bỏ mớ giáo lý hời hợt, nông cạn, ởm ờ đánh lận con đen bằng cái triết học "bất khả tri", với cái cõi "bình an hằng cửu" giả tạo ấy hay không? Khi mặt trời chân lý đã có mặt - thì tất cả ngọn đèn của các triết thuyết trên thế gian sẽ không còn rọi sáng cho ai được nữa! Kolita gật đầu - Phải lắm! Tất cả các con suối, con sông cuối cùng phải đổ vào con sông ại Hằng, cùng thế ấy, hãy thuyết phục thầy cũ của chúng ta đi theo ánh đạo Quang Vinh Bất Tử. Người thầy cũ Trên đường đến tu viện của đạo sĩ Sanjaya, đôi bạn thấy thấp thoáng khá nhiều tu sĩ áo vàng. Ngạc nhiên làm sao, họ mới chú tâm để ý. Cũng là áo vàng, cũng là màu hoại sắc, nhưng trông những tu sĩ này hoàn toàn khác xa với những tu sĩ khác nhan nhãn khắp nhiều quốc độ. Trông họ có vẻ gọn gàng, sạch sẽ và tươm tất làm sao! Những vị này đều đồng loạt cạo bỏ râu tóc; và cách đi đứng, phong thái, nét mặt của họ đều toát ra vẻ an nhiên, tĩnh lặng - thật khác xa với những tu sĩ ngoại đạo, lúc nào cũng nhuốm vẻ âu sầu, vàng võ, hốc hác, đăm chiêu, lơ đễnh, hời hợt, hấp tấp, kỳ bí, tóc tai rối bù, kỳ hình dị dạng, diêm dúa, dơ bẩn Chỉ chừng ấy thôi, đôi bạn đã xác tín được đâu là thiện mỹ! Giáo Pháp ấy có một uy lực, một năng lực cảm hóa con người và cuộc đời. Giáo Pháp ấy không ru ngủ, huyễn hoặc con người trong lời kinh tiếng kệ trầm buồn chỉ có tác dụng của liều thuốc an thần và hứa hẹn những thiên đường cực lạc xa xăm. Giáo Pháp ấy đã lôi dục vọng con người từ bỏ lý tưởng đại ngã, chân ngã rỗng tuếch, phù phiếm trở về trực diện với hiện tại bằng sự tỉnh thức, chánh niệm nơi mỗi bước đi, hơi thở. Họ đấy, những đệ tử của ức Vô Thượng, có lẽ là bạn của thầy ta, đang chậm rãi, thong dong, hiện quán trong từng cử chỉ, từng tâm niệm. Và rõ ràng, an lạc, hạnh phúc như tỏa sáng dịu dàng trên từng khuôn mặt, phơi phới, tươi đẹp làm sao! Ôi! Giáo Pháp và Giáo Hội của ức Tôn Sư, quả thật, đã thổi một luồng sinh khí, mới mẻ, trẻ trung, trang nghiêm và trong lành - xua tan hương khói âm u của đền miếu, hang động, bùa chú, phù phép... đã tù đọng ngầy ngật mấy ngàn năm trong sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng của đất nước này. Và còn hơn thế nữa, đã lôi được tinh thần con người ra khỏi những triết lý một chiều, phiến diện; đám sương mù chia chẻ của lý luận; những học thuyết xa rời thực tế cuộc sống; những cầu nguyện cuồng tín về những thế giới "bất khả tri"! - Vậy thì chúng ta phải cương quyết lôi kéo thầy của chúng ta từ bỏ nơi mê lộ mà tìm về với chánh đạo. - úng thế! Upatissa đáp lời Kolita - một tín ngưỡng trong sáng và lành mạnh, một Giáo Pháp trong sáng và lành mạnh, một Giáo hội trong sáng và lành mạnh của những tu sĩ trong sáng và lành mạnh đang có mặt ở thế gian này - dĩ nhiên là phải để dành cho những căn cơ thượng trí! Thầy của chúng ta lẽ nào không có tai để nghe, không có mắt để thấy, không có trí để tìm hiểu? Gặp lại hai người học trò ưu tú, đạo sĩ Sanjaya rất mừng vui. Sau một hồi đưa đẩy xã giao, Sanjaya hối thúc đôi bạn kể cho nghe những việc xảy ra trên bước đường lang thang tìm đạo bấy nay. Ông hy vọng là họ đã trở về lại với ông nên tỏ ra thông cảm sâu sắc - Ta hiểu lắm! Cuộc lang thang tầm đạo dĩ nhiên là nhiêu khê, vất vả lắm! i một ngày đàng, học một sàng khôn - thế gian còn bảo thế, huống chi đây là tháng ngày đi tìm chân lý. Vậy trí khôn của các người giờ như thế nào? Có vị chân sư, giáo chủ nào bước qua được thế giới "bất khả tri" của ta chăng? Không trả lời câu hỏi của đạo sĩ Sanjaya vội, Upatissa chậm rãi thuật lại một cách tóm tắt công việc tầm đạo của hai chàng cho đạo sĩ Sanjaya nghe. Upatissa thừa khôn khéo để nói rằng, quả thật đi khắp mọi phương trời cũng không tìm đâu ra một chân lý siêu việt, cuối cùng, mệt mỏi, bất lực - hai chàng trở lại Vương-Xá thành... Mới nghe nói đến đây, Sanjaya cười ha hả, cướp lời - ấy! Ta nói có sai đâu! Tất cả triết gia, giáo phái chủ, giáo phái sư trên đời này... đều là những con đom đóm, sao sánh được ngọn đèn minh triết của ta? Upatissa đoán biết là sẽ có câu nói ấy từ cửa miệng của đạo sĩ Sanjaya, nên chàng gật đầu - Bạch thầy! Thầy đã nói đúng! Quả thật tất cả giáo phái chủ, giáo phái sư trên đời này chỉ là ánh sáng đom đóm và giáo pháp của thầy là ngọn đèn... ạo sĩ Sanjaya gật đầu hoan hỷ - Các ngươi biết thế là hay! Biết thế là hay! Kolita nhẹ nhàng nói - Nhưng mà thầy ạ! Chúng đệ tử vừa gặp một Giáo Pháp, mà Giáo Pháp ấy lại sáng rỡ như mặt trời mặt trăng kia! - Cái gì? Cái gì? Các ngươi vừa nói cái gì? Sanjaya nhổm dậy, đã mất hẳn bình tĩnh. Upatissa bèn kể lại, rằng, ngày hôm qua, tại đây, tại Vương-Xá thành này, chàng đã gặp được đệ tử của ức Thế Tôn ra sao, cả hai chàng đều thấy rõ ràng Giáo Pháp ấy tỏa sáng tự trời cao, soi rọi mọi ngõ ngách tối tăm của phiền não và sở tri, đã thật sự đem đến an lạc tối thượng cho con người như thế nào... Rồi Upatissa thỉnh nguyện - Bạch Thầy! Vì trọng thầy, mến thầy, và để đáp đền ơn nghĩa cũ - chúng đệ tử tha thiết mong thầy từ bỏ giáo pháp này, cùng đi với chúng đệ tử đến quy y với ức Tôn Sư Vô Thượng. Nghe xong, đạo sĩ Sanjaya ngạc nhiên la lên - Cái gì? Các ngươi nói cái gì vậy? ến làm đệ tử ông Thế Tôn ấy; người có Giáo Pháp vĩ đại như mặt trời, mặt trăng? Xem nào, các ngươi có lầm lẫn không đấy! Ta đây đã là tôn sư của nhiều người - bây giờ theo ý các ngươi là phải từ bỏ tất cả, đừng làm tôn sư nữa, mà hãy đi làm đệ tử? Có xuẩn ngốc không chứ? Sanjaya giận dữ, phất y đứng dậy, cất giọng rổn rảng - ừng có thuyết phục ta những việc vô lý như thế! Danh dự và địa vị của ta không thể trong một lúc mà đem thả trôi sông. Ta đã nhất tâm khổ hạnh tu chứng, đạt được thiền định bậc cao. Ta lại cố công giáo huấn môn đồ, gầy dựng cơ sở vật chất, tổ chức đời sống tu học cho người xuất gia và tại gia. Tất cả đều thịnh mãn, trù phú và tốt đẹp. Thành quả này không dễ gì một sớm một chiều mà có được, không dễ gì ai cũng làm được. Phải đầy đủ trí tuệ, dõng lực, bản lãnh, nghị lực, phước báu cùng từ bi tâm. áng lý ra, các ngươi là hai đệ tử ưu tú của ta, phải ở bên ta, tiếp sức với ta, làm cho danh dự, tiếng tăm và địa vị của ta mỗi ngày mỗi to lớn, lan rộng, lan xa ra mới phải. Danh dự, tiếng tăm và địa vị của ta cũng là của các ngươi. Ở bên ta, ta có cái gì là các ngươi có cái ấy... thử hỏi các ngươi còn đòi hỏi cái gì nữa mới được chứ? Upatissa và Kolita thất vọng vô cùng. Trước đây, Sanjaya bao giờ cũng có vẻ trầm tĩnh, độ lượng, nghị luận sắc bén; thường chứng tỏ một nội lực, một sức học thâm sâu. Bây giờ, ông đã lộ trần truồng bản chất một con người nóng nảy, cạn cợt, ham danh, ham lợi một cách quá thô thiển. Sanjaya vẫn không dừng lại ở đó - Hả? Tại sao các ngươi lại im lặng? Trên đời này, có ai dại khờ đánh đổi một thành quả to lớn như vậy để chỉ lấy cái bát xin ăn, làm một đệ tử với hai bàn tay trắng, không tiếng tăm, không danh vọng? Upatissa và Kolita vẫn im lặng. Bất đồ, Sanjaya nắm bình hoa trên bàn ném xuống đất vỡ toang những mảnh sành nhỏ va nhau loảng xoảng. Ông chậm rãi cúi xuống, lựa chọn, rồi cầm lên tay một mảnh nhỏ, nhìn hai người, cất tiếng - Nói đi, nói đi! Theo ý các ngươi thì mảnh sành này hứng được bao nhiêu giọt nước? Vì nể thầy Kolita đáp - Ít thôi, chỉ vài giọt là cùng. - So với chiếc bình to chưa vỡ kia? - Bạch thầy, chẳng thể đo lường được! ắc ý, Sanjaya cười to lên - Thấy chưa! Tự các ngươi nói đấy! Các ngươi muốn ta tự đập vỡ cái bình to của mình ra, để nhận lại cái mảnh sành chút xíu mà đựng nước! Chỉ có kẻ ngu mới làm vậy phải không? Trí tuệ Upatissa chợt máy động. Dùng lý luận của đối phương để đập vỡ lý luận của đối phương là chuyện mà chàng thường làm. Nếu muốn, chàng chưa bao giờ hạ phong trước một ai cả. Ở đây, tuy nhiên, không phải là vậy, chàng chỉ muốn sử dụng sự sắc sảo của lý luận để thức tỉnh đạo sĩ Sanjaya mà thôi. Cho nên, để từ từ đưa Sanjaya vào lưới bủa của chính ông ta, chàng hỏi - Bạch thầy! Có thể nào, cùng một câu chuyện cái bình và mảnh sành mà đệ tử lại hiểu một cách khác không? - Làm sao lại khác được! - Ví như đệ tử hiểu ngược lại rằng cái bình kia nếu thầy khẳng khái đánh vỡ thì tốt đẹp cho thầy biết bao! - Làm gì có chuyện đó! Cái chuyện bình vỡ mà tốt đẹp là điều lạ thật đấy, đáng phục thật đấy! Kolita chăm chú lắng nghe, không hiểu được trí tuệ của vị sư huynh mình sẽ dẫn câu chuyện đến đâu! Một trực giác xẹt đến. Ồ! Chàng đã hiểu. Bất giác chàng mỉm cười. Upatissa thấy Sanjaya đã rơi vào tròng; nghiêm trang và cứng rắn, chàng cất giọng trầm hùng, đanh thép, không khoan nhượng - Bạch thầy! Theo giáo lý truyền thống Bà la môn thì mỗi chúng sanh là một tiểu ngã. Gọi là tiểu ngã nhưng trải qua bao kiếp luân hồi, từ vô thủy đến nay, nó tích lũy không biết bao nhiêu là ác nghiệp, hận thù, oan trái; nó thu góp không biết bao nhiêu là tham muốn xấu xa, độc ác. Thế mà đã đủ đâu, cái tiểu ngã ấy chất chứa vô lượng dục vọng rồi mà nó vẫn cảm thấy chưa đủ, chưa thỏa mãn - nó còn muốn phồng cho to lên bằng đại ngã kia! Thưa thầy! Dục vọng trong mỗi chúng sanh chính là những cái bình chứa ấy. Cái bình chứa ấy ở nơi thầy, hiện giờ nó đựng được nhiều thứ lắm. Nó đựng đầy trong lòng nó nào là kiêu căng, ngã mạn, tối tăm, tham vọng cùng sân si giận dữ! Ngoài ra, cái bình tiểu ngã rất to của thầy còn có công năng diệu dụng khác; có thể cắm lên đấy những cành hoa lộng lẫy, diêm dúa như trương lên những bảng hiệu quảng cáo mạ bạc thếp vàng lóng la lóng lánh hoa này là vì giáo phái, hoa này là vì đệ tử, hoa này là vì lợi lạc cho quần sanh, hoa này là vì chân lý tối thượng, hoa này là vì xả kỷ vị tha Ôi! May mắn làm sao! áng mừng làm sao! Cái bình to ấy, hôm nay, thầy của chúng ta đã đập vỡ đi rồi! Sanjaya nín lặng, nghẹn họng, tự nghĩ "- Chúng đã dùng lý luận khôn khéo để bẻ gãy lý luận của ta dễ dàng như thò tay lấy đồ vật ở trong túi. Chúng đã dùng chính cái gậy của ta để đập lên cái sọ của ta, thế nhưng, ta đã không đở nổi. Chúng đã dùng chính cái lưới của ta để bủa vây ta, thế nhưng ta đã không thoát ra khỏi." Upatissa bắn tiếp mũi tên thứ hai - Bạch thầy! Chúng đệ tử không nghĩ rằng, danh vọng, tiếng tăm, địa vị,... cho chí lâu đài, vương tước, bảy báu, gia sản vật chất đầy dẫy Châu Diêm Phù ề... lại quý trọng đến vậy. Khi đã đập vỡ cái bình rồi, thầy sẽ thấy như thế. Chỉ có một vương quốc thật sự đáng quý trọng, đó là những lời Pháp chơn chánh. Chỉ có một vương quốc thật sự đáng ngưỡng mộ, hướng về - đó là ánh sáng của ạo Bất Tử! Bạch thầy! Giáo Pháp của ức Tôn Sư, Bậc ại Giác đã thuyết có công năng đập vỡ những chiếc bình bản ngã to lớn, đoạn hoặc vô minh và phiền não cho chúng sanh, bẻ gãy bánh xe sinh tử và trầm luân vạn kiếp. Sau rốt, nó lại có công năng đem lại chân phúc, trí tuệ siêu đẳng và đức từ ái phi phàm. Giáo Pháp chỉ để dành cho những ai có tai để nghe, có mắt để thấy, có trí để tự mình giác hiểu. Giáo Pháp như nụ đàm hoa, hằng vạn năm mới nở một lần; nó có mùi hương vi diệu tỏa ngát trên trần thế, đem lại sự mát mẻ, trong lành cho chúng sanh giữa cõi nhiễm ô, tục khí. Vậy thì bạch thầy! Những gia tài sinh diệt, những hoạch đắc thống khổ mê lầm của bản ngã kia làm sao lại dám đem so sánh với ánh sáng Giáo Pháp của ạo Bất Tử? Nếu thầy biết nghe theo lời của chúng đệ tử - thì nên bỏ cái nhỏ mà tìm về cái lớn, phất tay cái hữu hạn mà nắm lấy cái vô cùng, xa lìa cái hạnh phúc phù du để chụp bắt cái an lạc như chân như thật, tung hê cái buộc ràng sinh tử để di vào chân trời giải thoát và tự do. Bạch thầy! ấy là điều đáng làm. Và thầy nên làm như vậy, bởi thầy là bậc trí trên đời này. ạo sĩ Sanjaya bị thuyết phục một hồi, đâm ra lúng túng, tự nghĩ "- Họ hiểu biết nhiều quá. Họ rào trước, đón sau chằng chịt, ta không có một kẽ hở nào để đặt chân vào đấy mà tranh luận. Tuy nhiên, ta không thể đứng vào vị thế bị bao vây, nhu nhược, yếu hèn, phải cất lên tiếng rống của con mãnh sư." Bèn hét - Thật là lý luận rỡm, khua môi múa mép! Thôi! Ta tha thứ cho đó! Các ngươi hãy đi đi! i đâu thì đi! Hãy đi cho khuất mắt ta! Upatissa hiểu tâm sự lẫn bản ngã của thầy, nên cố nhẫn nại - Thầy cùng đi với chúng đệ tử chứ? ạo sĩ Sanjaya la gắt lên - Sao nói gì kỳ lạ vậy? Làm sao ta lại phải đi! - Sao lại không đi được hở thầy? Upatissa cương quyết không bỏ cuộc - nếu thầy thấy quan điểm của đệ tử là đúng, thầy phải chấp nhận nó, và đi theo đệ tử; nếu thầy thấy quan điểm của đệ tử là sai, thầy hãy bác bỏ nó, và đệ tử sẽ ở lại bên thầy. Dứt khoát là vậy. Chẳng hay, quan điểm của đệ tử đúng hay sai? ạo sĩ Sanjaya như bị đẩy đến đường cùng, im lặng một lát rồi thở dài nói - Các ngươi không sai điểm nào cả. ến lượt Kolita ngạc nhiên - Không sai, nhưng thầy vẫn không theo? Nó đúng, nhưng thầy vẫn không chấp nhận? - Phải! - Tại sao? Kolita vặn hỏi - Một việc phải mà thầy vẫn không theo? Thế ra, thầy vẫn khư khư sống với cái sai của mình? ạo sĩ Sanjaya nghe nản quá, tự nghĩ "- ối với những kẻ trí tuệ, chân thực và đầy nhiệt huyết này, nếu như không được trả lời một cách rõ ràng, dứt khoát, chúng sẽ căn vặn cho đến tận cùng, ta sẽ không còn chỗ nào mà lách, mà trốn được nữa. Ta đã mệt quá rồi, thôi, thà rằng cứ nói thật một lần cho xong." Bèn nói "- ất đã không chịu trời thì trời xin chịu đất vậy!" Các ngươi hãy nghe đây! Các ngươi đều là kẻ có trí tuệ, có thể hơn cả ta, lại là người chân thật nữa. iều mà các ngươi bảo rằng đúng, Giáo Pháp mà các ngươi cho là Vô Thượng, Chân Phúc và Bất Tử - thì hẳn nhiên ta không một mảy may dám nghi ngờ. Nhưng đây mới là sự thật ta muốn nói - giọng Sanjaya đến đây như chùng hẳn xuống - ta thật sự đã già rồi, không thể thay đổi những thói quen đã ăn sâu quá lâu; ta thật sự chỉ quen làm đạo sư thiên hạ, không thể thay đổi thành đời sống của một đệ tử được nữa! Rồi ông nói to lên - Các ngươi nghe rõ rồi đấy chứ! Thôi, hãy đi đi! Hãy để cho ta được yên! Nghe lời thành thật, Upatissa cảm thấy thương xót cho vị thầy già, biết là không có cách chi thuyết phục được nữa, vẫn vớt một câu cuối cùng - Khi ức Thế Tôn xuất hiện ở trên đời, thì đấy là phúc duyên ngàn vạn năm ít có, thầy mà không theo về, thầy sẽ hối hận . ạo sĩ Sanjaya nói nhỏ, như chỉ vừa đủ cho tự mình nghe - Phải rồi! úng là vậy thật. úng là phúc duyên, là đại duyên thật. ấng ại Giác kia là Tôn Sư mà ta đây cũng là Tôn Sư. Nhưng bao giờ, trên trời nầy, kẻ ngu muội cũng nhiều hơn, mà kẻ có trí thì ít lắm. - Ý thầy nói gì, chúng đệ tử chưa nghe rõ? Sanjaya lại la lên - Ta đã nói quá rõ rồi đấy chứ! Ta đã nói rằng, xin cho tất cả những kẻ khôn ngoan, có trí thì hãy đến với ức Thế Tôn, ấng ại Giác của các ngươi! Còn những kẻ ngu si, dốt nát, ngu muội thì hãy đến với ta! Ha ha ha! Xem thử ai nhiều hơn! Hà hà! Xem thử đệ tử ức Tôn Sư của các ngươi và đệ tử của ta, ai đông hơn! Hà hà! Nói vậy là hết sách vở. Upatissa và Kolita bèn xá lễ, cáo từ. - Vậy chúng đệ tử xin bái biệt. Rồi thầy sẽ hối hận. - Ta, Sanjaya, đầu đội trời, chân đạp đất, không bao giờ hối hận! Mặc dầu nói cứng vậy, nhưng khi Upatissa và Kolita đi rồi, ông thẩn thờ dạo quanh tu viện, thấy tất cả đều vắng tanh, trống trải, ông vô cùng cáu giận. Bây giờ ông mới hiểu sự thật ảnh hưởng tinh thần của Upatissa và Kolita quá lớn trong đám môn đồ của ông; và khi hai người ra đi, không những mang theo hai trăm năm mươi đồ chúng của họ trước đây mà còn lôi cuốn tất cả đồ chúng của ông nữa. Càng nghĩ, Sanjaya càng buồn nản, tức bực; ông uất đến hộc máu tươi. Tuy nhiên, điều mà chẳng ai ngờ đến là ông không mảy may oán hận Upatissa và Kolita, không mảy may oán hận đám môn đồ bất nghĩa, mà ông hận chính ông vậy. Ôi! cao cả thay mà cũng bi đát thay! Xế chiều, hai trăm rưỡi đệ tử của Sanjaya không đành lòng bỏ thầy tuổi già cô độc một mình, họ bèn trở lại. Upatissa và Kolita cũng cám cảnh, khuyến khích họ trở về, rồi cùng với môn đệ nhắm hướng Trúc Lâm lên đường. Hai vị đại đệ tử Sau khi ức Phật nhận lời khu rừng Tre của vua Bình Sa dâng cúng; Ngài cùng với môn đệ bộ hành đến tận nơi chiêm quan thắng cảnh Trúc Lâm nổi tiếng. ức Phật đứng trên đồi cao nhìn lướt qua một vòng. Kia là những dãy núi xanh xanh bao quanh, nọ là những con suối trắng xóa vắt ngang, vắt dọc như giải lụa. Từng đám cây xanh đậm nhạt ẩn trong nhau, xen kẽ nhau; điểm giữa là những vùng lá vàng, lá đỏ đậm sắc, nổi bật như bức tranh vẽ của con người. ến gần hơn, đi luồng vào trong rừng, thì trúc không phải là loài cây duy nhất. Cả một rừng nhiệt đới phô bày dáng cây, dáng lá, màu vỏ cây, màu hoa phong phú trông thật ngoạn mục. Những con đường không biết tự bao đời ẩn hiện thấp thoáng, bò men bờ suối, chìm khuất đâu đó lại tiếp nối dưới chân đồi xa... Suối chảy róc rách, uốn lượn đó đây, tạo thành vũng, thành hồ rồi bình yên lặng lẽ đi qua đám cỏ lục xanh rì... Chim đua hót vang rân. Nai hồn nhiên gặm cỏ. Thỏ sợ hãi nhảy vút qua nấp trong bụi rậm ... Và ô kìa! Thiên hô vạn hát là sóc! Sóc tía, sóc đen, sóc vàng, sóc nâu, sóc rằn ri, sóc ngũ sắc... với những cái đuôi phồng lên, với những đôi mắt tho lỏ, rụt rè... nhìn ức Phật và Tăng chúng đi qua. Ngồi lại trên một phiến thạch bàn, ức Thế Tôn nói với môn đệ - Này các thầy tỳ-khưu! Giáo Pháp của Như Lai vừa xuất hiện ở trên đời như một luồng gió mới, như tiếng sấm gióng lên trong trời mưa, nhưng đã từ lâu lắm rồi, giáo lý truyền thống Bà la môn đã bưng tai, bịt mắt mọi người trong phúng tụng, đàn tế và cầu nguyện nên không dễ gì ai cũng nghe được Pháp Mầu Bất Tử. Những tu sĩ Bà la môn đã kết hợp với nhau thành một giai cấp đầy thế lực, nắm giữ độc quyền liên hệ với thần linh; nắm giữ độc quyền đám ma, nghi lễ, cúng tế; thao túng mọi sinh hoạt tinh thần, tín ngưỡng; đã dìm con người trong mọi thứ buộc ràng, nô lệ nên thật khó xiển dương một Giáo Pháp tôn trọng tự do, giải thoát cho con người. Này các thầy tỳ-khưu! Những cây cối, chim chóc, nai, thỏ, sóc, trong khu rừng Trúc Lâm này quả thật là trù phú và thạnh mậu. ất, nước, không khí trong lành này đã nuôi dưỡng nó, đã làm cho nó được tự do phát triển và lớn mạnh. Cũng vậy, muốn đem đến an vui và hạnh phúc cho chúng sanh thì Giáo Pháp phải có nơi làm cơ sở! Giáo Pháp ấy phải có đất, nước, không khí trong lành làm nhân, làm duyên hỗ trợ để nuôi nó lớn lên, nuôi nó trưởng thành vậy. Này các thầy tỳ-khưu! Như Lai tuyên bố rằng mảnh đất nầy là cơ sở đầu tiên ấy. Tại đây, Như Lai sẽ đợi chờ nhân duyên cho Giáo Pháp được trọn vẹn, toàn hảo. Một Giáo Pháp được gọi là trọn vẹn, toàn hảo không phải chỉ có một mình Như Lai và hơn một ngàn thầy tỳ-khưu như vậy. Lời tuyên bố của ức Phật, hôm ấy, Chư Tăng không hiểu hết ý nghĩa. Qua ngày hôm sau, vua Bình Sa, thân quyến và tùy tùng tìm đến vấn an, đảnh lễ dưới chân ức Phật rồi ngõ ý thỉnh ức Thế Tôn và Tăng chúng an cư mùa mưa ở đây. ức Phật im lặng nhận lời. Vua Bình Sa hoan hỷ phát tâm làm công đức, như bổn phận của vị Thánh đệ tử, xin được kiến thiết, xây dựng toàn bộ Trúc Lâm để ức Phật và Tăng chúng có chỗ để an cư. Một vị quan đại thần lão niên, bên cạnh vua Bình Sa kính cẩn thốt lên - Bạch ức Thế Tôn! ệ tử là quan coi về thiên văn, địa lý, phong thủy. Từ lâu, đệ tử biết rằng, đây là mảnh đất có khí tượng siêu phàm, phi ức Thế Tôn và Tăng chúng - không ai ở được. Ở đây, núi long, núi hổ, thiên tinh, đế tinh, kim tinh... tất cả đều chầu về, qui phục. Giáo Pháp của ức Tôn Sư, lấy đây làm căn cứ địa, thì Phạm Thiên, Chư Thiên, Ma vương, Dạ-Xoa, La-Sát, Vua loài người, giáo phái chủ, giáo phái sư, khắp nơi trong toàn cõi Châu Diêm Phù ề... phải qui chầu hết thảy! Lành thay! ệ tử cung kỉnh chúc mừng Giáo Pháp Vô Thượng. Chư Tăng có vị mỉm cười, có vị gật đầu lặng lẽ. Vua Bình Sa hỷ lạc dâng lên bừng bừng, quát yêu người bề tôi trung tín - Thôi vừa rồi, thôi đủ rồi! ức Thế Tôn và Tăng chúng bác học, đa văn còn biết nhiều hơn - hơn cả vô lượng cái đầu óc nhỏ nhoi , bé tí của tất cả ông thầy địa lý như ngươi cọng lại! ừng có bép xép, múa môi cái tài phong thủy không đáng nửa đồng xu! Mau mau cùng với đám thuộc hạ đi đo đạc, thiết kế... chọn chỗ thích đáng để xây dựng tịnh xá cho ức Thế Tôn! Rồi nơi nào là nhà giảng, nhà hội, trai phòng, tịnh phòng, liêu thất, nhà tắm, nhà vệ sinh, rừng hoa, rừng cảnh, đường kinh hành, rừng cây thiền duyệt... mỗi mỗi phải hoàn bị, đầy đủ, tươm tất, tiện nghi, khang trang, thoáng mát, ấm cúng, trang nhã! Nhưng hãy lưu ý đây có nghệ thuật nhưng nghệ thuật ấy phải giản dị, có công phu nhưng công phu ấy không được rườm rà, quá tỉ mỉ. Tinh thần chỉ đạo của toàn bộ nghệ thuật kiến trúc ở đây là phải mới mẻ, không được lặp lại, bắt chước từ nghệ thuật truyền thống, cũng không được lai căng! Cao hơn nữa, đây là tài sáng tạo của các ngươi tinh thần nghệ thuật ấy phải toát ra được sự êm đềm, tĩnh lặng, thanh thoát, giải thoát và cao nhã... như chính Giáo Pháp, như là đời sống Thánh hạnh của ức Thế Tôn và Tăng chúng vậy. Và hãy nghe cho kỹ đây tất cả công trình xây dựng ấy phải hoàn thành trong vòng hai tháng, trước mùa mưa! Nếu không xong, Trẫm sẽ lột mũ, gõ đầu, đuổi về quê mà làm nghề kiến trúc và địa lý! Quả thật là kiến thức của một ông vua tài trí và hùng mạnh, lại là một bậc Thánh đệ tử có bụng dạ nhân từ; nên lệnh ban ra, vị kiến trúc sư kiêm nhà thiên văn, địa lý kia hoàn toàn vâng phục chấp y, chẳng dám đưa ra được nửa lời góp ý. * * * Trúc Lâm tịnh xá đúng là căn cứ địa đầu tiên của Phật Giáo, là nơi tiền trạm, để từ đó, phát triển Giáo Pháp khắp các quốc độ. ức Phật nhận lời an cư ba mùa mưa ở đây, ngoài ra còn cố ý chờ đợi... hai người! Có hai người này như cánh tay phải, cánh tay trái của Ngài, bánh xe Pháp mới được chuyển luân xa rộng và viên mãn. Hôm ấy ức Thế Tôn đang ngồi trên bảo tọa, tam chúng * đoanh vây, thời Pháp chấm dứt, Ngài nói với mọi người - Này các thầy tỳ-khưu! Này hai hàng cận sự nam nữ! Như Lai đến Ma-Kiệt-à không những chỉ có nhân duyên với vua Bình Sa, là một hộ pháp đắc lực khuông phò Giáo Hội, mà còn có ý chờ đợi một nhân duyên khác nữa. Vậy thì hôm nay, ở đây, Như Lai sẽ tiếp nhận thêm hai đóa hoa kỳ tuyệt, hai ngôi sao sáng, hai nhân cách ưu tú nhất của Giáo Pháp. Nhân duyên ấy đã chín muồi, đã tròn đủ. Các ngươi hãy nhìn xem! Hai thanh niên đạo sĩ Upatissa và Kolita cùng hai trăm năm mươi đồ chúng đang đến trước cửa của khu rừng. [Ghi chú * tam chúng lúc ấy chưa có tỳ-khưu ni] Quả nhiên, khi ức Thế Tôn vừa nói xong, Upatissa và Kolita đã vào đến tịnh xá Trúc Lâm, theo sau là môn đệ bước đi thứ tự, trang nghiêm, lặng lẽ. Cả hai cung kính đến đảnh lễ dưới chân ức ạo Sư rồi ngồi xuống một bên. Các đệ tử đi sau cũng làm như thế, và ngồi rải rác khắp đó đây. Upatissa và Kolita đồng thưa - Bạch ức Thế Tôn! Chúng đệ tử lang thang đã lâu nay mới về được quê nhà. Xin ức Thế Tôn cho chúng đệ tử thụ giáo, quy y Tam Bảo, ở trong hàng Tăng chúng để cùng được hạnh phúc đi trên con đường Chánh Giáo. ức Phật đáp - Nầy các thầy tỳ-khưu! Etha Bhikkhave! Hãy lại đây, tỳ-khưu!. Như Lai cũng đang đợi chờ các ngươi. Khi Pháp Bảo đã thấy rồi, thì đời sống còn lại của một Sa môn Thánh đệ tử là những tháng ngày thiêng liêng và đạo hạnh trong sạch để lợi ích cho mình, cho Chư Thiên và loài người. Khi ức Thế Tôn vừa gọi "Etha Bhikkhave!" thì Upatissa và Kolita đã đầy đủ y bát, tướng hảo quang minh, đúng phong độ là hai bậc thượng thủ của Giáo Hội, và sau khi ức Thế Tôn nói vài lời tóm tắt, ngắn gọn về Con ường, cả hai liền nắm vững căn bản Pháp Bảo, tâm trí thông suốt. Lại một lần nữa, cả hai quỳ bên chân ức ạo sư với vô vàn sự tri ân cao cả. Từ đây Upatissa được gọi tên là Xá-Lợi-Phất Sàriputta và Kolita được gọi tên là ại Mục-Kiền-Liên Mahà Moggallàna. * * * Ngay vào buổi chiều hôm đó, ức Phật cho gọi Xá-Lợi-Phất và ại Mục-Kiền-Liên đến bên rồi bảo - Trúc Lâm tịnh xá cho đến hôm nay đã rất đông tỳ-khưu và cũng đã rất nhiều người đắc được quả cao nhất, như vậy, Giáo Hội tạm thời vững mạnh. Nói tạm thời vững mạnh vì Như Lai vẫn chưa có được người trợ thủ khả dĩ thay mặt Như Lai để lo Phật sự, Tăng sự cùng thuyết pháp, giáo giới đến chư tỳ-khưu cùng các hàng cận sự nam nữ! Hiểu ý ức Phật, cả hai cùng quỳ xuống. ại Mục-Kiền-Liên thưa - Xin ức Thế Tôn cho đệ tử đến ngụ cư nơi một ngôi làng vắng vẻ, tịch mịch, cũng gần đây thôi. ệ tử biết là phải làm gì cho tròn bổn phận. ức Phật im lặng nhận lời rồi nói với Xá-Lợi-Phất - Còn ông, hãy cùng đi với Như Lai đến một chỗ khuất tịch nhất. Cũng như ại Mục-Kiền-Liên vậy, ông cũng còn một phận sự phải làm và phải hoàn thành. Cả hai ông phải đặt bàn chân cuối cùng lên mảnh đất Bất Tử. ấy cũng là ước nguyện của Như Lai! ức Phật lại nói với ại Mục-Kiền-Liên - Ông cương quyết hành trì cho đắc đạo quả A-La-Hán, điều ấy là phải lẽ, là xứng đáng , là việc đầu tiên cần phải làm. Tuy nhiên, sẽ có những trở ngại trên lộ trình ấy. Khi nào khó khăn nhất, cơ hồ không vượt qua nổi, lúc ấy Như Lai sẽ có mặt ở một bên. Dặn dò thế xong, ức Phật dẫn Ngài Xá-Lợi-Phất ra đi. Ngài bộ hành đến một hang động tịch liêu tên là Sakarakhatalena - tức là ộng Heo, và thường ngày cùng với ức Xá-Lợi-Phất vào Vương-Xá thành để khất thực. Có phải ức Phật muốn chỉ dạy riêng về những điểm thâm sâu, tế nhị cho Bậc Tướng Quân Chánh Pháp trong tương lai chăng? ại Mục-Kiền-Liên sau khi từ giã ức ạo Sư và Xá-Lợi-Phất, Ngài đến ngụ tại ngôi làng Kallavàta, cách Vương-Xá thành không bao xa. Ngày ngày ngoài việc khất thực, hầu hết thì giờ Ngài để dành cho thiền định, tuệ quán, là phận sự duy nhất còn lại. úng một tuần sau, lười biếng, hôn trầm và dễ duôi đồng loạt kéo đến, Ngài phải ra sức kiên trì để chống chỏi. ức Phật biết rõ tình trạng nầy, đã xuất hiện kịp thời để dẫn giải cho ại Mục-Kiền-Liên các tầng bậc của thiền định, những pháp che lấp cần phải vượt qua, phải chiến thắng. Tuy nhiên, thế vẫn chưa đủ, còn có những cảm thọ vi tế của hỷ và lạc, của xả, của thuần tĩnh nhất tâm, của không, của thức, của tưởng... Tất cả đấy lại phải dùng đến tuệ quán để thấy rõ. Tuyệt đối không được an trú một pháp nào và cũng không được bỏ quên một pháp nào. Tất cả đều phải được nhìn ngắm trong suốt, trọn vẹn, trạm nhiên và hư tĩnh. Do nhờ trí tuệ và tinh tấn, không bao lâu sau, chỉ vào buổi chiều ấy thôi, Ngài đã dễ dàng chứng quả cao nhất A-La-Hán quả. ồng thời chứng đạt luôn năm thắng trí, năm thần thông, là pháp của bậc thượng nhân. Từ đây, ại Mục-Kiền-Liên đã đủ điều kiện để làm một vị ại ệ Tử. Còn Ngài Xá-Lợi-Phất thì thường ngày hầu cận ức Tôn Sư mà chẳng được ức Tôn Sư nhắc nhở, khuyến khích gì về đạo quả tối thượng ấy. Trên đường đi khất thực, hoặc những khi ở trong hang động, ức ạo Sư thường lặng lẽ, tỉnh giác, chánh niệm, bao giờ cũng tự tại, định tĩnh như Tu-Di sơn. Thỉnh thoảng, ức Phật nhập đại định rất sâu, khí an tĩnh và hào quang tỏa sáng, dịu một vùng. Thế đấy, Ngài dường như đang thuyết pháp vô ngôn, hiện tiền, giản dị và sống động nhất. Năm bảy lần gì đó, ức Phật có nói chuyện, nhưng nói về những điều không cao siêu gì lắm! - Nầy Xá-Lợi-Phất! Giáo Pháp mà Như Lai thuyết, Giáo Pháp ấy gốc nó ở đâu? - Bạch ức Thế Tôn! Nó ở Tâm! - Nói gần hơn một chút. - Nơi hơi thở! - Gần hơn nữa! - Sát-na Tâm! ức Phật chẳng nói những kiến giải đó đúng hay sai, Ngài chỉ im lặng và dường như Ngài có mỉm cười rất nhẹ, thế thôi. Một lần khác, trên đường khất thực trở về, ức Phật nghỉ chân dưới cội cây, nhìn ra xa với cây cảnh, đồi núi, suối khe... trước mặt, Ngài nói - Này Xá-Lợi-Phất! Hãy hướng tầm mắt ra ngoài xa kia, nơi vạn vật đang dàn trải ra đó - ở đấy có Giáo Pháp không? - Vâng, có bạch ức Thế Tôn. - Nó là gốc hay là ngọn? - Chưa thấy thì nó là ngọn, thấy rồi nó cũng không khác gốc! - Thấy rồi, gốc ngọn ấy nó giống nhau ư? Nó hòa làm một ư? - Cái nào ra cái ấy, cái nào tính chất ấy! Cũng như lần trước, ức Phật lại im lặng, bước đi. Chốc sau, Ngài lại hỏi - Này Xá-Lợi-Phất! Bước chân của Như Lai đi có Giáo Pháp, vậy bước nhảy của con chim trên tảng đá kia có Giáo Pháp không? - Bạch, có ạ! - Có vì con chim tự biết ư? - Không! Bạch ức Thế Tôn! Có, khi chính đệ tử nhìn bước nhảy ấy. - Vậy Giáo Pháp của ngươi thấy ấy với Giáo Pháp của Như Lai thuyết - cũng là một ư? - Bạch, nó không hai! Bây giờ ức Phật mới quay lại nhìn Xá-Lợi-Phất, mỉm cười nhẹ - Ông có biết không? Trong nhiều kiếp quá khứ, Như Lai đã từng chất vấn ông, và ông cũng đã từng chất vấn Như Lai. Nhưng nay thì Như Lai chỉ chất vấn ông, mà ông lại không chất vấn Như Lai! - Bạch ức Thế Tôn! ệ tử còn tối tăm, ngu muội; quá khứ đã bị che lấp, đệ tử không hiểu gì. Mong ức Thế Tôn đại bi giáo hóa! Im lặng giây lát, ức Phật nói - Hãy kham nhẫn, này Xá-Lợi-Phất! Ông là người có trí, chỉ cần vài nét đại cương là ông sẽ hiểu ra toàn bộ. Nhưng nay chưa phải thời. Hãy kham nhẫn! Vậy là đúng một tuần sau khi ại Mục-Kiền-Liên chứng ngộ, chợt nhiên ức Phật nói với Xá-Lợi-Phất - Hôm nay, ông có một người cháu, đã lớn tuổi, vượt đường xa đến thăm ông - y là một du sĩ ngoại đạo! - Bạch ức Thế Tôn! Có lẽ đấy là đạo sĩ Dìghanakha chăng? - Nghe nói y học vấn uyên thâm, luận bác, tranh biện vào hàng trứ danh trong ngoại đạo? - Bạch, quả đệ tử có nghe như vậy! Nhưng trước đây, lúc tranh luận với y, may mắn là đệ tử chưa từng thua cuộc! Nói đến đây, Xá-Lợi-Phất quỳ xuống ôm chân ức ạo Sư - Bạch ức Thế Tôn! Y cũng là người có trí, chỉ còn rất ít bụi cát trong mắt thôi. Xin ức Thế Tôn vì bi mẫn, thuyết cho y nghe một thời Pháp về ạo Bất Tử! ức Phật im lặng nhận lời. Quả nhiên, không lâu sau, một đạo sĩ du phưong tìm đến, ân cần thăm hỏi ức Xá-Lợi-Phất một cách chân tình, lễ độ. Thấy tướng hảo quang minh, cùng nét mặt bình an, thanh thoát của ức Xá-Lợi-Phất, đạo sĩ Dìghanakha đâm ra tò mò -Thưa chú! Trước đây chú khác mà bây giờ chú khác. Trước đây mỗi lần chú cháu ta tranh luận với nhau, nơi vầng trán cao của chú dường như cau lại, nơi đôi mắt sắc bén, đầy khí lực của chú dường như có gợn một thoáng mờ như hơi sương! Bây giờ thì không vậy, nó sáng rỡ, mênh mông, và tỏa hào quang nữa! ức Xá-Lợi-Phất mỉm cười, nhìn người cháu lớn tuổi, học thức cao rộng mà tính khí hồn nhiên, cởi mở và chân thực, lòng Ngài tràn đầy thương mến. ạo sĩ Dìghanakha đi lui đi tới, hít thở, lắng nghe rồi nói - Thật là kỳ lạ! Không phải chỉ ở nơi chú, mà xung quanh đây cũng vậy, dường như toát ra sự bình an, mát mẽ và thanh khiết. Cái ấy không chỉ cảm nhận mà còn sờ được, ngửi được, nghe được! Tại sao kỳ lạ vậy chứ! ức Xá-Lợi-Phất tự nghĩ "Cái ấy có được - có lẽ nhờ năng lực của ức Tôn Sư!" Chợt nhiên đạo sĩ Dìghanakha quay lại - Thưa chú! Chẳng hay chú đang sống trong một Giáo Pháp như thế nào mà sớm được thành tựu pháp mầu như vậy? ức Xá-Lợi-Phất ân cần nắm tay đạo sĩ - Này cháu! Khi ức Tôn Sư đã có mặt trên đời, nhất là khi ấng Vô Thượng lại đang ở đây; thì cho dầu ít lời, ít chữ, ít câu của Ngài thôi cũng sẽ đem đến cho cháu Niềm Vui Bất Tử! Ta là gì mà dám nói Pháp Bảo trước ức Tôn Sư! ức Phật xuất hiện từ cửa động phía sau bước lại. Dìghanakha nhìn sững. Tất cả từ nơi Ngài toát ra, cho dù vua của đỉnh Hy mã lạp sơn kia cũng phải cúi đầu xuống thấp. Dìghanakha cung kỉnh đảnh lễ dưới chân ức Thế Tôn. Sau đó ức Phật thuyết kinh Vedanà Parigaha - tức là bài kinh nói về các trạng thái của Tâm cho đạo sĩ Dìghanakha nghe. Xong thời Pháp, đạo sĩ đắc quả Tu-à-Hườn. ức Xá-Lợi-Phất hầu sau lưng ức Phật, nhờ để tâm chuyên chú vào thời Pháp nên đắc quả A-La-Hán với bốn Tuệ Phân Tích. Như vậy, với sự thành tựu tri thức tối thượng, tuệ tối thượng, ức Xá-Lợi-Phất từ đây cũng đã đầy đủ điều kiện để làm một ại ệ Tử nữa. Biết người đệ tử của mình đã làm xong xuôi bổn phận cuối cùng - cũng như ại Mục-Kiền-Liên đã xong xuôi quả vị cách đây một tuần lễ, ức Phật, ngay lúc ấy, chợt đứng lên - Này Xá-Lợi-Phất! Bây giờ hãy cùng Như Lai lên đường trở về Trúc Lâm tịnh xá. Chúng ta còn nhiều việc phải làm! ến đây thì ức Xá-Lợi-Phất chợt hiểu "úng là cái thấy biết vi diệu của Bậc Toàn Tri Diệu Giác. Là phàm nhân, cho dầu một vị Thánh A-La-Hán cao nhất cũng khó hiểu được những diễn biến, những ý nghĩ, những tri kiến, những dự định trong tâm của một vị Phật. Té ra, ức Thế Tôn đột ngột rời Trúc Lâm tịnh xá đến hang động này cũng chỉ để thành tựu cho mình quả vị cuối cùng. Té ra, ức Thế Tôn chỉ nói vắn gọn vài lời gợi ý cho ại Mục-Kiền-Liên cũng là để thành tựu cho ại Mục-Kiền-Liên quả vị A-La-Hán nơi ngôi làng tịch mịch , thanh vắng nọ. Quả thật, các vị Phật xuất hiện ở đời, một biểu hiện nhỏ của các Ngài, qua thân, qua khẩu, qua ý, bao giờ cũng toàn thiện, toàn chân, toàn mỹ; lúc nào cũng lợi lạc cho quần sanh." Ngay chiều hôm đó, tại Trúc Lâm tịnh xá, ức Thế Tôn bố cáo một cuộc họp rộng rãi, đầy đủ hơn một ngàn thầy tỳ-khưu cùng những cư sĩ tại gia, rồi Ngài nói rằng - Trước đầy đủ Chư Tăng, đầy đủ hai hàng cư sĩ áo trắng, Như Lai muốn tuyên bố một tin quan trọng cho Giáo Pháp, để từ đó Giáo Pháp mới có thể phát triển vững mạnh, lan xa nhiều quốc độ là từ đây, Như Lai đã có hai vị ại ệ Tử, là Trưởng tử của Như Lai , là con được sinh ra từ miệng của Như Lai - đó là Xá-Lợi-Phất và ại Mục-Kiền-Liên. Xá-Lợi-Phất là ệ Nhất ại ệ Tử, Mục-Kiền-Liên là ệ Nhị ại ệ Tử. Họ sẽ là hai cánh tay trợ thủ đắc lực cho Như Lai , được quyền thay mặt Như Lai giải quyết tất cả mọi lĩnh vực thuộc về Phật sự hay Tăng sự. Xá-Lợi-Phất và ại Mục-Kiền-Liên quả thật xứng đáng là Thượng Thủ của Giáo Hội. Như Lai trân trọng tuyên bố như vậy. ức Phật vừa nói xong, đại chúng xôn xao bàn tán. Có nhiều tranh luận nho nhỏ đã xảy ra. Người ta không hiểu tại sao ức Thế Tôn không dành danh dự tối cao này cho các vị tỳ-khưu Trưởng lão, cao hạ như nhóm năm Ngài Kiều Trần Như, như nhóm Ngài Yasa? Hoặc như nhóm ba mươi vị tỳ-khưu ở Chư-Thiên-ọa-Xứ? Thảng hoặc là nhóm ba anh em Ngài Ca-Diếp, có cả ngàn đồ chúng, tuổi cao, đức trọng - có thể là xứng đáng nhất bước vào hàng thượng thủ của Giáo Hội? Còn ức Xá-Lợi-Phất và ại Mục-Kiền-Liên - mặc dầu được ức Thế Tôn tuyên bố là "con của Như Lai", tức là đã chứng quả A-La-Hán - nhưng họ đều là người trẻ tuổi, lại chỉ gia nhập Giáo Hội vừa đúng nửa tháng! Vậy có thể nào, ức Thế Tôn, bậc Vô Thượng Chánh ẳng Chánh Giác lại có tâm thiên vị? ức Phật hướng tâm đến, biết tâm của đại chúng, Ngài nói rằng - Này các thầy tỳ-khưu! Như Lai không hề thiên vị. Như Lai làm như vậy là hoàn toàn do sự thấy, sự biết của Như Lai . Hãy nghe đây, các thầy tỳ-khưu! Quả thật năm ông Kiều Trần Như tuổi tác cao trọng, là những bậc trí thức, trí tuệ, hạ lạp cao nhất, rất xứng đáng vào hàng thượng thủ. Tuy nhiên, ở một kiếp trước, khi họ bố thí vật thực chín lần trong mùa gặt, họ không có nguyện vọng trở thành đại đệ tử. Họ chỉ phát nguyện bước vào Giáo Pháp của Như Lai đầu tiên và chứng được phẩm hạnh cao nhất. Giờ đây họ đã mãn nguyện. iều đó có đúng sự thật không, hỡi nhóm ông Kiều Trần Như? Nhóm các Ngài Kiều Trần Như đồng bước ra, quỳ xuống đảnh lễ dưới chân ức Phật, bạch rằng - Quả đúng như vậy, Bạch ức Tôn Sư! Phẩm hạnh cao nhất và đầu tiên chính là phát nguyện của chúng đệ tử. ức Phật im lặng một lát rồi tiếp - Còn rất nhiều vị A-La-Hán khác xứng đáng vào hàng thượng thủ nữa, như nhóm ông Yasa, nhóm các ông ở Chư-Thiên-ọa-Xứ, nhóm các ông Ca-Diếp. Nhưng họ cũng vậy, trong họ, không ai đã từng phát nguyện làm đại đệ tử cả, có phải thế không? Dường như có một số vị Thánh im lặng nhắm mắt, hướng tâm về quá khứ, sau đó, Ngài Ca-Diếp, thay mặt mọi người, bạch - Quả đúng như vậy! Thưa ức Tôn Sư! Khi việc quá khứ không còn bị che lấp bởi sự tiết lộ của chư Thánh Tăng, nhất là sự xác nhận của Ngài Ca-Diếp, bậc đạo cao đức trọng, đại chúng đều hoan hỷ. ức Phật lại tiếp - Còn hai ông Xá-Lợi-Phất và ại Mục-Kiền-Liên, trong vô lượng quá khứ, vào thời ức Phật Anomadassi, họ sinh ra làm một người Bà la môn có tên là Sàrada, và một người làm điền chủ có tên là Sirivaddhaka - nguyện vọng của họ là trở thành đại đệ tử khi gặp ức Phật trong kiếp cuối cùng. Vậy này các thầy tỳ-khưu! Như Lai không hề thiên vị! Như Lai vì thấy, vì biết, nguyện vọng của mỗi người - nên bây giờ, chỉ trả lại phẩm vị cho họ, đúng với nguyện vọng của họ mà thôi! ại chúng thở phào, nhẹ nhõm. Một ức Thế Tôn, một Bậc Chánh ẳng Chánh Giác khi tuyên bố một lời nào là đều có nhân, có quả, đều vì lý do chánh đáng, đều vì lợi ích lâu dài, hạnh phúc cho nhiều người. Từ đây, ức Xá-Lợi-Phất và ức ại Mục-Kiền-Liên nhận lãnh vai trò và trách nhiệm mới trong việc phục vụ Giáo Hội, làm ại ệ Tử đã được ức Tôn Sư tấn phong với tất cả uy tín và danh dự cao trọng trước đại chúng môn đồ. -ooOoo- ầu trang 01 02 03 04 05 06 07 08 09 10 11 Mục lục Chân thành cám ơn ại đức Giác ồng đã gửi tặng phiên bản vi tính Bình Anson, 07-2001
mot ngoi sao bang vua roi qua day